Thuyết minh về một di tích lịch sử (Văn Miếu)
Dạy
Trong hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, Văn Miếu – Quốc Tử Giám là di tích gắn liền với việc thành lập kinh đô Thăng Long dưới thời Lý. Nơi đây có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô lớn nhất, khang trang nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng của văn hóa, lịch sử Việt Nam.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào mùa thu năm Canh Tuất – 1070, vua Lý Thánh Tông cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc thánh hiền, thánh hiền, các Nho sĩ có công với nước, trong đó có Khổng Tử. Từ – người sáng lập Đông Nho học và Nho học Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu về đạo đức và phẩm giá cao của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau – năm 1076, vua Lý Nhân Tông quyết định khởi công xây dựng Quốc Tử Giám – ngôi trường Nho học bậc nhất hiện nay để đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự lựa chọn hàng đầu của triều đình phong kiến Việt Nam về giáo dục và đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho giáo Á Đông.
Trong khu di tích còn có 82 tấm bia khắc tên 1306 người đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ năm 1484 đến 1780. Trên các tấm bia này cũng ghi tên các vị tiến sĩ cao tuổi. nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ ở tuổi 82. Người trẻ nhất là Nguyễn Hiền quê ở Nam Trực (Nam Định) đỗ Trạng nguyên năm Đinh Mùi, niên hiệu Thiên Bình thứ 16 (tức 1247) đời Trần Thái. đời Tống khi mới 13 tuổi. Từ đó, Văn Miếu Quốc Tử Giám – được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, tồn tại cho đến thế kỷ 19.
Nằm trên diện tích hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính giáp đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học. , phía đông giáp đường “Tôn”. Đức Thắng, Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có trường vây tứ phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu 1 gồm Vân Hồ (hồ văn); Văn Miếu Môn, tức cổng và cổng ngoài cùng. Có 3 cửa, cửa giữa lớn xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu Môn. Khu thứ hai, từ cổng chính đi thẳng đến cổng thứ ba có Văn Miếu Môn. Khu thứ hai, đi từ cổng chính. thẳng đến cổng thứ hai là Đại Trung Môn, bên trái là Thành Đức Môn, bên phải là Đạt Tài Môn, kế bên là Khuê Văn Các (xây dựng năm 1805) Khu 3 là giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh). Khu vực này có 82 tấm bia Tiến sĩ xếp thành hai hàng, bia hướng ra giếng, là một di tích thực sự có giá trị. Đại Thành cũng mở ra các kiến trúc chính như dãy Tả Vu, Hữu Vu, ở giữa là phố Đại Bái tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính, truyền thống. Xưa đây là nơi thờ các vị tổ Nho. Khu trong cùng là nơi dạy học của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ nhân tài “nguyên khí của đất nước” đã được trui rèn tại đây. Khi nhà Nguyễn dời trường Quốc Học vào Huế, ngôi đền này được dùng làm đền thờ Khí Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư hại hoàn toàn trong chiến tranh.
Điều đáng mừng là năm 2000, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khởi công xây dựng trường học Thái Lan với trị giá 22 tỷ đồng. Công trình này là do yêu cầu của thời đại, nó là một công trình xây dựng mới nhằm tôn vinh nền văn hiến của dân tộc. Các thế hệ sau này đến đây để có những giây phút tưởng nhớ đến những người đã có công khai sáng và xây dựng nền giáo dục Việt Nam.
Trải qua bao thăng trầm và biến cố của lịch sử, Văn Miếu – Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Các công trình thời Lý, Lê hầu như không còn. Song Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ được vẻ tôn nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000 năm trước của Hà Nội, xứng đáng là một khu di tích văn hóa hàng đầu và mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân. người dân thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.