“Những bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những bài thơ chiến tranh tiêu biểu cần được điểm qua trong danh sách. tác phẩm văn học ôn thi vào 10 . Nhằm giúp các em hiểu sâu hơn về tác phẩm, trong bài viết này, HOCMAI chúng ta cùng nhau phân tích Bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Phạm Tiến Duật
– Tên khai sinh: Phạm Tiến Duật
– Sinh năm 1941, mất năm 2007
– Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời chống Mỹ
Tiểu sử và sự nghiệp sáng tạo
Phạm Tiến Duật sinh ra trong một gia đình có bố là giáo viên, mẹ làm nông và không biết chữ. Năm 1964, ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhưng sau đó ông không tham gia giảng dạy mà quyết định lên đường nhập ngũ.
Thời gian trong quân ngũ, ông chủ yếu sống và chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời điểm nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông ra đời. Tác phẩm của ông chủ yếu là thơ. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc, tiêu biểu nhất là bài “Đông Trường Sơn, Tây Trường Sơn”.
Từ những vần thơ in đậm hình ảnh người lính thời chống Mỹ, Phạm Tiến Duật đã được ca ngợi là “con chim lửa Trường Sơn”, “cây mía cô đơn giữa rừng già” hay “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. . Bởi thơ ông được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”, có tác dụng kích thích ý chí chiến đấu của người lính trên mặt trận gian nan, thử thách.
Sau giải phóng, ông tiếp tục làm thơ dựa trên những trải nghiệm của bản thân về ranh giới giữa sự sống và cái chết trên chiến trường. Tiêu biểu trong số đó là tập thơ “Tiếng bom và tiếng chuông chùa” xuất bản năm 1997 viết về những nữ quân nhân từ chiến trường trở về, họ đi tu, làm thiện nguyện như một truyền thống đạo đức rất nhân văn. văn học Việt Nam.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Phạm Tiến Duật đã sở hữu những tập thơ lớn gồm:
- Tập thơ “Trăng lửa” (1970)
- Tập thơ “Hai đầu núi” (1981)
- Tập thơ “Vầng trăng và ngọn lửa” (1983)
- Tuyển thơ “Thơ Một Chiều” (1994)
- Tập thơ “Nhóm lửa” (1996)
- Sử thi “Tiếng bom và tiếng chuông chùa” (1997)
Phong cách nghệ thuật thơ Phạm Tiến Duật:
– Thơ Phạm Tiến Duật được người viết đánh giá cao và có những nét độc đáo như: giọng thơ sôi nổi, trẻ trung, vừa có chất “tinh nghịch” vừa mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
– Thơ anh tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua hình ảnh những người lính, những nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
– Vừa tham gia chiến đấu với tư cách người lính, vừa quan sát chiến trường với tư cách phóng viên mặt trận nên thơ Phạm Tiến Duật vừa mang hơi thở thời đại, vừa có khí chất ngang tàng, bụi bặm của người lính thời đại. chống Mỹ.
2. Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9
Một. Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính
– “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được viết năm 1969, sau đó được in trong tập thơ “Trăng lửa”, xuất bản năm 1970. Đây là thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt. khắc nghiệt ở cả hai miền Nam Bắc.
Hiện thực lúc bài thơ ra đời: từ năm 1959 đến năm 1975, nhờ có tuyến đường Trường Sơn, ta đã vận chuyển được hơn một triệu tấn hàng hóa, vũ khí vào chiến trường miền Nam, nhưng đồng thời cũng bị máy bay Mỹ đánh phá. . gần 90 nghìn tấn hàng hóa và 14.500 phương tiện, máy móc.
– Đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được coi là tuyến vận tải chiến lược, nối hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam. Trên đường Trường Sơn, sự sống và cái chết rất mong manh, không ai đong đếm được những khó khăn chồng chất: ngày thường thì gập ghềnh, nguy hiểm; mùa mưa nước mưa đổ xuống như thác; Mùa nắng, bụi bay mù trời. Vào một ngày trời quang mây tạnh, giặc Mỹ liên tục dội mưa bom xuống các đoàn xe của quân ta.
– Dù khó khăn nhưng niềm tin vào chiến thắng và sự quyết tâm đã giúp những đoàn xe không kính vượt qua tất cả. Với người lính lái xe khi ấy, mỗi con đường, mỗi chuyến xe đều đầy ắp những kỷ niệm mà dù có đi hết cuộc đời họ cũng không thể nào quên.
– Lấy cảm hứng từ người lính lái xe và chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã sáng tác “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” khi đang trực tiếp chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Ý nghĩa nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
– Tác phẩm có nhan đề khá dài và đặc biệt: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề bài thơ tưởng chừng có chỗ thừa nhưng lại thu hút người đọc bởi sự lạ lùng, độc đáo. Nhan đề bài thơ đẹp ở sức gợi: thơ gợi về cuộc sống nơi chiến trường. Đặc biệt, qua nhan đề, người đọc có thể hình dung được đối tượng chính mà tác giả muốn đề cập đến: những phương tiện chiến tranh không kính.
Mục đích của việc đưa hình ảnh “đội xe không kính” vào nhan đề bài thơ:
– Miêu tả hiện thực trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước
– Trình bày đối tượng tiêu biểu, tái hiện hiện thực vô cùng cam go, ác liệt của chiến tranh.
– Ca ngợi vẻ đẹp của người lính lái xe với lòng dũng cảm, ý chí, nghị lực và sự kiên cường trong hành trình lái xe vượt Trường Sơn.
– Hai chữ “Thơ” làm nên nét đặc sắc trong nhan đề tác phẩm cho thấy cách nhìn và cách khai thác hiện thực của tác giả: ngoài việc hồi tưởng hiện thực tàn khốc của chiến tranh, ông muốn khám phá chất thơ. Từ hiện thực ấy, chất thơ trong lòng người lính lái xe
– Nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” không chỉ giúp làm nổi bật chủ đề chính mà còn thể hiện tình cảm ngợi ca, tự hào của tác giả về những người lính lái xe.
II. Bố cục bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài thơ được chia làm hai phần chính:
– Phần I gồm 2 khổ thơ đầu: từ “Không kính không vì xe không có kính…” đến “…Như sa, như lao vào buồng lái”
Nội dung chính: Dáng điệu thư thái, kiêu hãnh của người lính khi lái những chiếc xe không kính
– Phần II gồm 6 khổ thơ còn lại: từ “Không kính có sao bụi,…” đến “….Miễn là có tấm lòng trên xe”
Nội dung chính: Hình ảnh người lính lái xe trên đường Trường Sơn
Trong đó:
– Câu 3,4: Tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất khuất của người lính: Hình ảnh người lính lái xe là minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và của tuổi trẻ Việt Nam thời kỳ đó. kháng chiến chống Mỹ cứu nước
– Câu 5,6: Tình đồng chí, đoàn kết cao cả của những người lính lái xe dọc Trường Sơn: Vượt hàng nghìn cây số lái xe trong mưa bom, bão đạn, những người lính lại quây quần đùa giỡn với nhau. tếu táo và ấm áp trong tình đồng chí, đồng chí. Chính tình cảm thiêng liêng ấy đã kết nối những trái tim lại với nhau, nâng đỡ nhau trong chặng đường dài phía trước.
– Câu 7: Lòng yêu nước, ý chí chiến đấu và lí tưởng cách mạng của người lính: Qua hình ảnh thơ độc đáo, tác giả đã khắc họa hình ảnh người lính với tấm lòng bao dung, kiên trung, có tấm lòng yêu nước, giúp người lính vượt qua mọi sự đe dọa của kẻ thù.
Nắm chắc kiến thức Văn, luyện thi vào 10 và đạt 9+ với bộ sách
III. Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Phân tích khổ thơ 1,2: Tư thế ung dung, tự hào của người lính khi lái những chiếc xe không kính
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom vỡ kính vỡ
Tận hưởng buồng lái chúng ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Thấy gió vào dụi mắt cay
Thấy con đường đi thẳng vào trái tim
Thấy sao trên trời bỗng thấy tiếng chim
Như sa, như lao vào buồng lái.”
– Từ xưa đến nay, hình ảnh phương tiện giao thông trong thơ ca thường được “hoa mỹ hóa” hoặc “lãng mạn hóa”, giàu ý nghĩa tượng trưng hơn là hiện thực. Bạn đọc có thể đã bắt gặp “cỗ xe ba ngựa” trong thơ Pushkin, con tàu trong bài thơ “tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, hay “đoàn thuyền đánh cá” trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
Tuy nhiên, trong thơ Phạm Tiến Duật, “những chiếc xe không kính” hiện lên một cách rất chân thực và hiện thực qua hai câu thơ đầu:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Quả bom trúng quả bom và kính vỡ.”
– Điệp khúc “không” cộng với chất văn xuôi của thể thơ tự do, kết hợp với khẩu ngữ giúp mở ra một lời giải thích ngay từ đầu. Hai câu thơ dường như được viết ra để thay lời giải thích, lý giải của người lính lái xe về hình ảnh khác thường của “những chiếc xe không kính”.
– Hai câu thơ là tâm trạng xót xa, tiếc nuối của người lính với chiếc xe của mình khi nó không còn nguyên vẹn lành lặn như ban đầu.
– Cụm từ “bom giật, bom rung” vừa giúp người đọc hình dung về một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của quân thù, vừa cho thấy sự khốc liệt mà chiến tranh gây ra cho xe tải.
– Từ phủ định: “chưa” và “chưa” đi kèm với các từ “bom giật, bom rung” có ý nghĩa khẳng định hiện thực tàn khốc mà chiến tranh đã gây ra. Đồng thời, chúng còn làm câu thơ thêm hùng vĩ, góp phần tôn lên vẻ đẹp của những chiếc xe trong lần xuất hiện đầu tiên.
=> Ngay từ hai câu đầu của bài thơ, tác giả đã hình dung ra những đoàn xe vận tải quân sự mang bao thương tích do chiến tranh gây ra. Đó là bằng chứng rõ ràng cho sự tàn phá khủng khiếp mà quân đội Mỹ đã gây ra trên chiến trường Việt Nam
Sử dụng những chất liệu từ cuộc chiến tranh khốc liệt đó, Phạm Tiến Duật đã xây dựng hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với tư thế hiên ngang, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:
“Bình tĩnh buồng lái chúng ta ngồi trong
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
– Biện pháp đảo ngữ, đặt tính từ “ung dung” ở đầu câu tạo nên vẻ điềm tĩnh, điềm tĩnh lạ lùng của người lính lái xe.
“Nhìn thẳng” là cái nhìn chủ động, tự chủ, bất khuất, bộc lộ những phẩm chất cao quý, đặc biệt là sự dũng cảm, hiên ngang của người quân tử. Họ nhìn thẳng vào gian khổ, không ngại khó khăn, không hổ thẹn với trời đất vì họ cũng chiến đấu vì một mục tiêu cao cả.
– Điệp từ “thấy” được lặp lại 3 lần, kết hợp với nhịp thơ dồn dập, giọng điệu khỏe khoắn đã thể hiện tầm nhìn bao quát, rộng lớn của người lính giữa chiến trường.
– Biện pháp liệt kê, điệp ngữ trong câu thơ “trông đất, ngó trời, ngó thẳng trời” đã thể hiện tư thế vững vàng, kiêu hãnh của người chiến sĩ lái xe, sẵn sàng nhìn thẳng vào bom đạn, nhìn thẳng vào trẻ. Đường đang bị bắn phá để lái xe qua.
Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan không màng hiểm nguy của người lính lái xe ra trận được tô đậm qua những hình ảnh thiên nhiên:
“Thấy gió vào dụi mắt cay
Thấy con đường đi thẳng vào trái tim
Thấy sao trên trời bỗng thấy tiếng chim
Như sa, như lao vào buồng lái.”
– Thay vì gói gọn trong không gian của một chiếc xe tải không kính, tác giả đã mở rộng tầm nhìn ra một không gian rộng lớn hơn. Có những con đường dài, có gió thổi, có cánh chim và có sao đêm. Phải chăng thiên nhiên giữa núi rừng Trường Sơn ùa vào buồng lái, khơi gợi chất thơ trong tâm hồn người lính trẻ?
Không gian rộng lớn của thiên nhiên được tác giả miêu tả qua:
– Điệp từ “thấy” và phép điệp ngữ: “thấy…thấy…” và giọng thơ hối hả, hối hả gợi lên cảnh những đoàn xe không kính nối đuôi nhau chở nhu yếu phẩm từ Bắc vào Nam.
– Biện pháp nhân hóa chuyển cảm giác “xoa mắt cay xè” để thể hiện những hiểm nguy do thời tiết gây ra mà người lính phải trải qua. Vì xe không có kính nên không cản được gió. Gió thốc vào khoang lái làm “cay mắt”. Tuy nhiên, những người lính vẫn dũng cảm, bất chấp khó khăn để tiến về phía trước
– Hình ảnh “đường chạy thẳng vào tim” thể hiện tốc độ bay của những chiếc ô tô. Chiếc xe không kính cùng với tốc độ cực nhanh của xe đã rút ngắn khoảng cách giữa anh em với con đường khiến người lính điều khiển xe có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim mình, hòa cùng dòng máu yêu nước đang chảy trong lồng. ngực.
– Hình ảnh “ngôi sao” và “cánh chim” là biểu tượng phân biệt hai trạng thái đêm và ngày. Câu thơ “thấy sao trời bỗng cánh chim bay” có nghĩa là từng đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm, hễ máy bay Mỹ ngừng bay là đoàn quân ta lại hành quân.
– Hình ảnh so sánh “như rơi xuống, lao vào buồng lái” một lần nữa nhấn mạnh tốc độ nhanh phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Không chỉ con đường mà cả bầu trời đêm ùa vào buồng lái.
=> Qua hai khổ thơ đầu, tác giả đã miêu tả sinh động hiện thực chiến trường đến từng chi tiết. Hơn nữa, đằng sau đó còn là một khí phách, một bản lĩnh, thể hiện qua tư thế chiến đấu kiên cường, dũng cảm của người lính trước sự khốc liệt của chiến tranh.
2. Phân tích khổ thơ 3,4 bài thơ về tiểu đội xe không kính: Tinh thần lạc quan, sôi nổi, hiên ngang của người lính
“Không có kính thì có bụi
Keo xịt tóc trắng như ông già
Không cần tắm rửa, phì phèo điếu thuốc
Nhìn nhau cười ha ha
Không kính, vâng, quần áo ướt
Trời đang mưa, ngoài trời đang đổ mưa
Không cần thay đổi, chạy thêm trăm cây số
Mưa tạnh, gió thổi khô nhanh.”
Với tinh thần lạc quan, những người lính lái xe đã coi gian khổ, nguy hiểm nơi chiến trường trở thành một phần cuộc sống ở Trường Sơn. Điều này được thể hiện qua:
– Những hình ảnh thơ “gió”, “bụi”, “mưa” là những hiện tượng thiên nhiên, thời tiết, tiêu biểu cho những gian khổ, thử thách mà người lính phải đương đầu.
– Cấu trúc lặp: “Không có…, cũng…” được lặp lại hai lần ở đầu hai khổ thơ, cùng với cấu trúc phủ định “Không cần…” đã thể hiện sự tàn bạo, khinh bỉ nguy hiểm. , bất chấp khó khăn, bất chấp gian khổ người lính lái xe Trường Sơn
– Hình ảnh so sánh trong hai câu thơ “Bụi phun tóc trắng như ông đồ” và “Mưa đổ, trời đổ như ngoài” là cách nói phóng đại của tác giả nhằm nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi chiến trường. đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan, dũng cảm của Bộ đội Trường Sơn. Dù mưa bụi phủ đầy tóc và quần áo, họ vẫn giữ nguyên chí hướng, vẫn phóng thẳng về phía trước.
– Trong sự khắc nghiệt của thiên nhiên, người lính vẫn “đốt điếu thuốc”, cố “đi thêm trăm cây số”. Đây là hình ảnh thể hiện sự thờ ơ, bàng quan của người lính lái xe trước những thử thách mà anh phải trải qua trên tuyến đường Trường Sơn.
=> Bằng ngôn ngữ giản dị đời thường, kết hợp với giọng văn điềm đạm, hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính giữa gian khổ, hiểm nguy của trận mạc, cùng với đó là lòng quả cảm, nghị lực phi thường
=> Hình ảnh tiểu đội xe không kính qua hai khổ thơ trên là minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
3. Phân tích khổ thơ 5.6, Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Tình đồng chí đoàn kết cao cả của người lính lái xe dọc Trường Sơn
“Xe rơi từ bom
Đến đây để thành lập một đội
Gặp gỡ bạn bè dọc đường
Bắt tay nhau qua ô cửa kính vỡ.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Bát đĩa chung đũa nghĩa là gia đình
Võng mắc kẹt giữa đường
Hãy đi một lần nữa, đi đến bầu trời xanh một lần nữa.”
Vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số chạy xe dưới mưa bom, bão đạn, những người lính gặp lại nhau vui tươi, ấm áp tình đồng đội. Chính tình cảm thiêng liêng ấy là sợi dây vô hình gắn kết những con người trong hoàn cảnh cái chết luôn rình rập
– Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi xuống”: vừa miêu tả chân thực những chiếc xe không kính, mưa bom đạn lạc trên chiến trường trở về, vừa có hàm ý nhấn mạnh ý chí chiến đấu bất khuất, kiên cường của quân dân. lính lái xe
Ý nghĩa của hình ảnh giàu sức gợi “Bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ”:
– Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc giữa những người lính cùng chung gian khổ dù khác con đường
– Hành động “bắt tay” có thể coi là những lời động viên ngắn gọn mà họ dành cho nhau. Cái bắt tay ấy vừa mang đến niềm an ủi, vừa là động lực để gắn kết những trái tim lại với nhau, hỗ trợ nhau trong chặng đường dài phía trước.
Cuộc hội ngộ của biệt đội xe không kính tuy ngắn ngủi nhưng đầy tình đồng đội:
Qua những bữa ăn vội vàng giữa cánh đồng “lưng chừng trời”, chung bát đũa đã vô hình chung giúp những người lính xích lại gần nhau hơn:
– Hình ảnh gia đình hiện lên mang đậm chất lính, vừa vui tươi, vừa chân thành, sâu sắc. Vô tình nhờ những khó khăn, thiếu thốn đó mà những người lính gắn bó với nhau như một gia đình thực sự, giúp đỡ nhau trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống đời thường.
– Khoảng thời gian nghỉ ngơi, dù chỉ trong chốc lát và bữa cơm “bó đũa chung” giữa đường đã trở thành giây phút hạnh phúc hiếm hoi trên hành trình của những người lính vượt Trường Sơn. Qua đó xóa bỏ khoảng cách, giúp họ trở nên gần gũi, thân thiết, thậm chí quý mến nhau như ruột thịt.
– Từ “bấp bênh” của tiếng võng là ẩn dụ cho cảm giác chông chênh, chênh vênh trên những cung đường xe đi qua. Ngay cả khi nghỉ ngơi, những người lính vẫn phải chịu đựng sự bấp bênh và bất an đó. Nhưng, với họ, càng gian khổ, ngày chiến thắng càng đến gần.
– Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” đã thể hiện tâm hồn hăng hái, lạc quan của người lính. Màu xanh là biểu tượng của niềm tin, sự tin tưởng và hi vọng vào ngày toàn thắng, đất nước hoàn toàn giải phóng.
– Điệp từ “lại đi, lại đi” và câu thơ 2/2/3 đã khẳng định đoàn xe sẽ khẩn trương đi tiếp trên con đường gian khổ phía trước.
=> Khổ thơ thể hiện nhịp sống sôi nổi và tinh thần chiến đấu kiên cường của tiểu đội xe không kính. Sức mạnh của giặc Mỹ dù tàn bạo đến đâu cũng không ngăn được ý chí chiến đấu của quân đội ta.
4. Phân tích khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Lòng yêu nước, ý chí chiến đấu và lí tưởng cách mạng của người chiến sĩ
Đoạn thơ khép lại bằng bốn câu thơ thể hiện ý chí chiến đấu kiên cường bất khuất của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn – đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ với lí tưởng sống cao cả.
“Không có kinh thì không có đèn
Không có mui, cốp có vết xước
Xe vẫn chạy vì phía trước là miền Nam
Miễn là có một trái tim trong xe.”
Ở khổ thơ cuối, một lần nữa tác giả gợi lại hình ảnh những chiếc xe không kính một cách chân thực và sinh động qua:
– Thủ pháp liệt kê những khuyết điểm của xe như: không kính, không đèn, không nóc, thùng xe trầy xước nhằm nhấn mạnh sự thiếu thốn, bất toàn của đoàn xe mang nhiệm vụ “xẻ dọc dãy Trường Sơn đi cứu nước”.
– Từ “không” góp phần diễn tả sự ác liệt, khốc liệt mà chiến trường đã mang lại cho những chiếc xe: mưa bom đạn lạc làm chiếc xe trơ trọi, thiếu những bộ phận cơ bản nhất của một chiếc xe. xe bình thường.
– Sự cằn cỗi và sự tàn phá của bom đạn tưởng chừng như đã làm dừng lại phương tiện. Nhưng điều kỳ diệu là những chiếc xe vẫn lên đường ra trận, hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
– Sử dụng phép đối lập giữa “không” với “vẫn chạy” đã làm nổi bật sức mạnh, sự bền bỉ của người chiến sĩ điều khiển xe.
– Câu thơ “Vì miền Nam phía trước” gợi lại niềm tin về ngày toàn thắng, ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước.
Hình ảnh “trái tim” là một ẩn dụ nghệ thuật sáng tạo của tác giả, thể hiện chân lí sâu sắc về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng cao đẹp:
– Hình ảnh trái tim đã khẳng định phẩm chất cao quý của người lính lái xe trên đường Trường Sơn. Các bạn vừa góp phần tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam, vừa trở thành hình ảnh thanh niên tiêu biểu cho lòng yêu nước của thế hệ chống Mỹ cứu nước.
– Các bộ phận trên xe bị thiếu và không còn nguyên vẹn, nhưng “miễn là” một “trái tim” yêu nước còn nguyên vẹn, chiếc xe vẫn có thể ra trận và hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình.
– Hình ảnh “trái tim” còn tượng trưng cho lòng dũng cảm, lòng yêu nước và sức mạnh của lòng yêu nước. Chính sức mạnh vô hình ấy đã khỏa lấp những khuyết điểm của phương tiện, tạo động lực để người lính vượt qua khó khăn, thử thách.
– “Trái tim” của người lính tuy vô hình nhưng hữu hình, có thể thay thế tất cả, biến chiếc xe không kính thành một cơ thể sống, hòa cùng tâm hồn người lính để tiếp tục cuộc hành trình dài. đằng trước.
=> Hình ảnh “trái tim” khép lại khổ thơ làm sáng lên ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đó là trái tim yêu thương, trái tim kiên nhẫn, trái tim chèo lái, giúp người lính vượt qua mọi sự đe dọa của kẻ thù. Và “tấm lòng” ấy cũng đã trở thành nhan đề của bài thơ, để lại ấn tượng, cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
III. Tổng hợp phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Về nội dung bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Những bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc xây dựng hình tượng người chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thông qua những hình ảnh thơ đặc biệt là những chiếc xe không kính, tác giả đã khắc họa chân thực hình ảnh người chiến sĩ lái xe với nhiều phẩm chất cao đẹp. Bất chấp khó khăn, thử thách, những người lính vẫn trong tư thế dũng cảm ra trận với trái tim nồng ấm, tình đồng chí, lòng yêu nước nồng nàn.
2. Về nghệ thuật Những bài thơ về tiểu đội xe không kính
– Thể thơ tự do, chất văn xuôi khiến câu thơ trở nên đời thường, dễ hiểu
Sử dụng chất liệu hiện thực trên chiến trường vừa nói lên kinh nghiệm của tác giả, vừa ngợi ca, tự hào về những đoàn xe không kính “xẻ dọc Trường Sơn” đi cứu nước.
– Ngôn ngữ đậm chất khẩu ngữ tự nhiên, đậm chất lính lái
– Giọng điệu đậm đà pha chút hài hước, hóm hỉnh làm nổi bật thái độ coi thường gian khổ trước hoàn cảnh thiếu thốn, cái chết cận kề của người lính khi thi hành nhiệm vụ.
Trên đây là toàn bộ nội dung phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm các tài liệu Soạn 9 mà HOCMAI đã biên soạn nhằm phục vụ quá trình học tập ôn tập môn Văn cũng như phục vụ cho việc ôn thi học kỳ và ôn thi tốt nghiệp lớp 10. Hi vọng với những nội dung trên, các em đã có thêm sự tự tin. tin tức trước thềm kì thi học kì cũng như kì thi vào lớp 10 sắp tới!
Tìm hiểu thêm:
Phân tích bài thơ Đồng chí