Phân tích hình ảnh cây xà cừ là chủ đề thường gặp khi tìm hiểu tác phẩm Rừng Xà Nữ (Nguyễn Trung Thành). Bài văn của các em sẽ hay và trôi chảy hơn sau khi tham khảo hướng dẫn và tuyển tập các bài văn hay phân tích hình ảnh cây vông dưới đây.
Nội dung chính
TÔI. Hướng dẫn làm bài tập về nhà Phân tích hình ảnh cây xà cừ
Đầu tiên. Phân tích yêu cầu
– Yêu cầu về nội dung: nêu và phân tích hình tượng cây xà nu, ý nghĩa của hình tượng cây xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu.
– Phạm vi tư liệu: ngôn từ, chi tiết, hình ảnh… có trong tác phẩm “Rừng nu hoang” của Nguyễn Trung Thành, đặc biệt là chi tiết về cây xà nu.
– Phương pháp lập luận chính: phân tích.
2. Luận án về hình ảnh của cây
– Luận điểm 1: Rừng và cây cối gắn bó với đời sống, sinh hoạt của dân làng Xô Man.
– Luận điểm 2: Cây xà nu – biểu tượng cho nỗi đau mất mát của dân làng Xô Man.
– Luận điểm 3: Cây xà nu – hình ảnh tượng trưng cho sức sống bất diệt, mãnh liệt của dân làng Xô Man.
– Luận điểm 4: Cây xà nu – hình ảnh tượng trưng cho khát vọng tự do và niềm tin vào cách mạng của dân làng Xô Man.
3. Ý nghĩa biểu tượng cây xà cừ
* Ý nghĩa thực sự
– Cây thông là loại cây thực tế rất phổ biến ở Tây Nguyên, thuộc họ thông… có sức sống vô cùng mãnh liệt, vượt qua thời tiết khắc nghiệt để vươn lên từng ngày.
– Cây tre gắn bó mật thiết trong đời sống, sinh hoạt của người dân TN (Nhà nào bếp cũng có giàn, củi, nhựa cây đốt, khói làm ván,…).
* Ý nghĩa tượng trưng
– Cây xà nu tượng trưng cho cuộc đời nhiều đau thương:
+ Con rắn nào cũng có vết thương như dân làng nào cũng có nỗi đau riêng do quân thù gây ra.
– Hình ảnh cây xà nu đã được tác giả nâng lên từ một hình ảnh thiên nhiên bình dị thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo, là ẩn dụ cho tư thế, sức sống và nghị lực của con người Tây Nguyên.
+ “Cây mẹ đổ, con lớn” kiên cường, bất khuất như bao thế hệ dân làng Xô Man dệt nên truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất
+ Cây bàng ưa nắng như người dân làng Xô Man yêu tự do, yêu hoà bình, luôn hiên ngang, vươn cao, không chịu khuất phục trước kiếp trâu ngựa.
– Hình ảnh cây mâm xôi tượng trưng cho phẩm chất của người dân Tây Nguyên với “ý chí quật cường, bất khuất, kiên cường” trong cuộc chiến đấu với đế quốc Mỹ xâm lược.
II. Làm một bản phác thảo phân tích hình ảnh con hà trong rừng hà
Sau khi được định hướng cụ thể về nội dung cơ bản của bài văn, các em có thể từng bước xây dựng các đoạn văn nhỏ theo mẫu dàn bài chi tiết dưới đây:
Đầu tiên. Khai mạc hình ảnh cây xà cừ
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành và tác phẩm Người rừng
+ Nguyễn Trung Thành (bút danh Nguyên Ngọc) là nhà văn, nhà báo, biên tập viên, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng của Việt Nam.
+ “Rừng rắn” là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Trung Thành lấy cảm hứng từ hình tượng cây xà nu và những “anh hùng dân tộc” ở làng Xô Man trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
– Dẫn dắt, giới thiệu hình ảnh cây sa nu: Rừng sa nu là hình ảnh xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, tượng trưng cho sức sống mãnh liệt, bền bỉ của bao thế hệ người dân Tây Nguyên.
2. Thân hình hình ảnh cây xà cừ
– Rừng xà cừ là hình ảnh xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.
Một. Luận điểm 1: Rừng sa nu, cây sa nu gắn bó với đời sống, mọi hoạt động của dân làng Xô Man.
– Xà nu là loại cây rất phổ biến và gắn liền với cuộc sống của người dân Tây Nguyên.
– Từ xa xưa, Xà nu luôn hiện diện trong đời sống thường ngày của dân làng:
+ Ngọn lửa rắn nấu trong mỗi gian bếp của gia đình Xô Man
+ Lửa kêu trong đình làng
+ Đuốc đuốc soi sáng đường rừng ban đêm, làm bảng đen cho chú Quyết dạy Mai và Tnú học chữ.
– Nủa xuất hiện trong những sự kiện quan trọng và đã ăn sâu vào tiềm thức, suy nghĩ của người dân làng Xô Man:
+ Bà Mết kể chuyện cho dân làng nghe, Đuốc cháy sáng trên tay bà Mết cùng dân làng Xô Man vào rừng sâu lấy giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa.
+ “Đêm đêm dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc con rắn”.
+ Sống bên cây thông, chết bên cây thông.
=> Cây sa nu và rừng có mối quan hệ rất đặc biệt với người dân làng Xô Man.
b. Luận điểm 2: Cây xà nu – biểu tượng cho nỗi đau mất mát của dân làng Xô Man.
– “Hầu hết đạn đại bác rơi xuống đồi rắn cạnh con nước lớn, cả khu rừng bạt ngàn không một cây nào là không bị thương. Có cây bị đốn ngang nửa thân, lao như vũ bão”.
– “Ở vết thương, nhựa chảy ra, đặc quánh mùi thơm ngào ngạt, lấp lánh dưới nắng hè oi ả, rồi dần dần bầm tím, đen kịt và đông đặc lại thành một cục lớn.”
– Những vết thương ấy đã gợi lên trong chúng ta biết bao đau thương, mất mát, hy sinh của người dân Tây Nguyên: ông Xút, bà Nhan, v.v.
c. Luận điểm 3: Cây xà nu – hình ảnh tượng trưng cho sức sống bất diệt, mãnh liệt của dân làng Xô Man.
– “Bên cạnh cây mâm xôi bị đổ là bốn, năm cây non đã mọc lên, ngọn xanh mướt, hình mũi tên hướng thẳng lên trời”.
– Hình ảnh những chiếc xà ngang vươn lên trời cao cũng như bao thế hệ dân làng Xô Man, hết lớp này đến lớp khác, thế hệ nối tiếp thế hệ đứng lên chiến đấu.
d. Luận điểm 4: Cây xà nu – hình ảnh tượng trưng cho khát vọng tự do và niềm tin vào cách mạng của dân làng Xô Man.
– Cây xà cừ là loài cây “ưa nắng. Nó nhảy lên rất nhanh để đón nhận ánh nắng, ánh nắng trong rừng từ trên cao chiếu xuống thành những dòng suối thẳng tắp, lấp lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây, thơm và ngon”.
– Hình ảnh những chiếc xà nhà vươn thật cao, thật xa để đón lấy ánh mặt trời gợi lên trong ta niềm khao khát tự do, khát vọng vươn tới tương lai tươi sáng của nhân dân Liên Xô.
– Ánh nắng mà xà nhà vươn tới có phải là ánh sáng của Đảng, của cách mạng?
3. Kết thúc Phân tích hình ảnh
– Khái quát về hình tượng cây sa nu: Hình tượng cây sa nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng sa nu”.
– Nghệ thuật xây dựng hình tượng rừng trúc: sử dụng câu văn gợi tả, từ ngữ và hình ảnh đặc sắc được chọn lọc, nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, giọng điệu miêu tả linh hoạt.
III. Bài văn đạt điểm cao phân tích hình ảnh cây xà cừ được chọn lọc qua các đề thi
Nhằm giúp các em nắm được cách trình bày cụ thể của bài văn cũng như có vốn từ nhất định phục vụ quá trình viết văn, trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong tổng hợp và gửi đến các em một số bài văn phân tích hình ảnh cây mã đề. Điểm cao được tuyển chọn thông qua các kỳ thi, bài kiểm tra của học sinh trên cả nước. Cùng tham khảo ngay nhé!
1. Phân tích hình ảnh cây xà cừ mẫu số 1
Nguyễn Trung Thành là bút hiệu của nhà văn Nguyên Ngọc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Truyện “Rừng rắn” của ông viết năm 1965 là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về cuộc “đồng khởi” của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Ông Mết, một già làng, một thủ lĩnh nghĩa quân đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, chông, rựa… vùng lên đánh giặc ác ôn và bè lũ tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng làng mạc, núi rừng. rừng thiêng. Họ chiến đấu vì sự sống còn, vì chân lý cách mạng sáng ngời: “Chúng cầm súng, mình cầm giáo!”. Bên cạnh những nhân vật để lại cho ta nhiều ấn tượng như Mị, Tnu, Mai, Dít, Heng, Quyết… thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được tác giả khắc họa và ngợi ca như một chiến sĩ anh dũng.
Khi đó, cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối, đầy gian nan thử thách. Giặc kéo đến, lùng sục, phục kích, không đêm nào chó cùng súng không sủa trong rừng. Ngôi làng bị bao vây, dân làng bị kìm kẹp và khủng bố dã man. Đầu ông chảy máu, tang tóc và đau đớn: Giặc treo ông Xút lên cây sung đầu làng; Chúng giết bà Nhạn, cắt tóc treo súng!
Cùng chung số phận đau khổ với dân làng Xô Man, rừng rắn nằm trong tầm bắn của đại bác địch. Chúng bắn ban ngày, ban đêm, lúc sáng sớm và chiều tối, hoặc lúc chập choạng tối mịt, hoặc lúc nửa đêm gà gáy sáng. Tang thương bao trùm rừng rắn. Hàng vạn cây xanh “không một cây nào không bị thương”. Đạn địch cắt xuyên thân, “xà nhà đổ như vũ bão”; Nhựa cây tích tụ và tích tụ “đen lại và đông đặc lại thành những cục máu đông lớn”. Rừng xavan bị thiệt hại nặng nề như con người. Bao nhiêu cây non bị trúng đạn giặc, vết thương “cứ lở loét ra” năm mười ngày thì cây chết!
Gần 20 lần người viết đề cập đến rừng sa nu, đồi sa nữ, cây sa nu, cành sa nu, ngọn và lá sa nu, nhựa sa nu, khói và lửa sa nu… Mỗi Thời điểm xuất hiện, cây xà nu với dáng vẻ khác lạ, tất cả đều là biểu tượng cho khí phách oanh liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên, sức mạnh bất khuất!
Người Strá hiên ngang trong lửa đạn, người trước ngã xuống, người sau tiến lên. Rừng rắn cũng vậy, bên cạnh một thân cây bị bắn hạ, bốn, năm cây mọc lên, sinh sôi nảy nở, “ngọn xanh tươi, mũi tên chĩa thẳng lên trời”. Nếu như cây kơ nia có bóng cây che phủ cánh đồng và lòng người tượng trưng cho sự thủy chung, nghĩa tình thì cây sa nhân lại là loại cây “ưa nắng”, hương nhựa cây “thơm ngào ngạt, ngào ngạt. “.
Nguyễn Trung Thành ba lần tạo ra những so sánh độc đáo, tráng lệ ca ngợi tầm vóc của cây thông: có khi ngọn cây như mũi tên vút thẳng lên trời, có khi những chồi non nhú ra khỏi mặt. Đất “vót nhọn như mũi lê”, có khi cả rừng vầu “ ưỡn ngực lớn che chở cho xóm làng”. Rõ ràng là hình ảnh ngọn giáo mang tầm vóc và khí phách của một chiến binh thực thụ trong máu lửa.
Khu rừng ấy có lúc được miêu tả trong mắt Tnú vào những buổi chiều, những buổi sáng khi Tnú về thăm làng rồi lại ra đi. Sau ba năm, ông đi “lực lượng”, đi tìm bọn Đức ác trả thù, ông về quê, thăm làng mạc, gặp lại rừng rắn như gặp lại bạn chiến đấu, ông hãnh diện và tự hào. . mải mê ngắm nhìn: “Đứng trên ngọn đồi xavan ấy nhìn ra xa, phóng tầm mắt chẳng thấy gì ngoài những đồi “sna nu” nối tiếp nhau đến tận chân trời”.
Và buổi sáng anh lên đường, có anh Gặp và anh Dít, còn có cả một rừng rắn tiễn đưa anh với bao niềm thương nhớ. Anh mang theo hình ảnh quê hương ra đi với một sức mạnh mới: “Ba người đứng nhìn xa xăm. Phóng tầm mắt ra xa, chẳng thấy gì khác ngoài rừng rắn nối đuôi nhau chạy đến tận chân trời”.
Hình ảnh rừng xà nu gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về chiến tranh nhân dân, về giai cấp nhân dân, về biểu tượng của rừng xà nu, về những hy sinh, đóng góp của đồng bào Tây Nguyên. trong kháng chiến. Chính vì thế mà khi gặp lại Tnú, anh Gặp đã hùng dũng khẳng định với tất cả tự hào và thách thức: “Mày có đi qua rừng gần nước lớn không? Nó còn sống, không cây nào khỏe bằng đất ta. Cây mẹ đổ”. , cây con mọc lên, chắc nó giết hết cả rừng rắn này!”.
Nét đặc sắc của truyện ngắn “Rừng sa nu” là nghệ thuật miêu tả cảnh và người đặc sắc. Rừng xà nu không chỉ là một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, không chỉ là một cảnh chiến trường bi tráng, mà còn là biểu tượng cho tinh thần anh dũng của Tây Nguyên và đồng bào Nam Bộ anh hùng. Anh Mết giống như một anh hùng trong sử thi “Bài ca săn mồi”! Là một già làng 60 tuổi, người đẫy đà, râu dài đến ngực, đôi mắt sáng ngời với vết sẹo chiến tích sáng bóng, ông Mết cởi trần “ngực căng như cây đại thụ”.
Nói đến hình ảnh cây rắn lửa không thể không nhắc đến cây rắn lửa. Tác giả đã tạo ra ba nét vẽ về con rắn lửa, gợi lên một không khí thần thoại linh thiêng. Dưới ánh lửa, Tnú đã đọc “tử thư” của Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi hi sinh. Lần thứ hai, hình ảnh con rắn lửa cháy trên mười đầu ngón tay của Tnu là ngọn lửa căm hờn căm thù “máu kêu máu đòi, đầu trả lại đầu” (Tố Hữu).
Lần thứ ba, ánh đuốc rắn rực đỏ, lấp lánh giáo mác, kèm theo tiếng hô: “Chặt! Chém!” Xác của Mật, phơi xác mười tên giặc, trong đó có tên Dực Đức, nằm trong vũng máu trên nhà đại bàng. Cây xà nu đã cùng nhân dân Xô Man bao nhiêu năm đánh Mỹ và bè lũ tay sai bán nước!
Nếu nhà thơ Thu Bồn lấy cánh chim sáo, một nhà thơ vô danh lấy cây kơ-nia làm biểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật khởi của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thành công. đã tạc vẻ đẹp kì vĩ của rừng rắn nói lên khí phách anh hùng của dân làng Xô Man, của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam. Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc huyền ảo, không khí linh thiêng, hương vị sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây Nguyên được thể hiện hào hùng qua hình tượng rắn rừng.
Truyện “Rừng Xà Nu” là một thành công lớn, tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh. Cảnh vật và con người được soi sáng dưới ngọn lửa thiêng huyền ảo. Nó đã giúp người đọc sống lại một giai đoạn lịch sử vô cùng đau thương và vẻ vang của dân tộc.
2. Phân tích hình ảnh cây vối mẫu số 2
Tây Nguyên – vùng đất hùng vĩ, thơ mộng, ấm áp, tình người mà kiên cường, bất khuất, từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao văn nghệ sĩ. Ai cũng tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp đẽ để tâm hồn cất cánh, ngòi bút thăng hoa. Ngọc Anh có bóng cây Kơ-nia như tiếng thổn thức nồng nàn của một tình yêu trung thành thủy chung, Thu Bồn có tiếng chim Chòe ngân vang tiếng hót trong trẻo nồng nàn đầy tình kẻ chiến thắng… Và Nguyễn Trung Thành đã mang lại điều đó. Nó cho ta hình ảnh của những cánh rừng Bà Nu chạy dài đến tận chân trời như sức sống bền bỉ, bất diệt của đồng bào Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước.
Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như bà Mết, Tnú, Dít, Mai gây cho ta ấn tượng sâu sắc mà còn có cây xà nu – một hình tượng độc đáo bao trùm toàn bộ truyện ngắn này. Chính hình ảnh cây xà nu đã tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ và chất sử thi lãng mạn cho câu chuyện về dân làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đó là một hình ảnh hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng.
Qua hình ảnh này, người đọc thấy rõ sức sống kiên cường, sức sống mãnh liệt của người dân Tây Nguyên nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung trong những ngày đánh Mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trung Thành miêu tả cụ thể, chi tiết cảnh rừng sa nu bằng ngôn ngữ thơ, bằng những “lời có cánh” với tình cảm nồng nàn như ta thấy trong tác phẩm. Các sản phẩm. Gần hai mươi lần nhà văn viết về cây sa nữ, dường như cây sa nữ tham gia vào mọi hoạt động, tình cảm, nỗi buồn, niềm vui của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu hào hùng của họ.
Một câu chuyện dài đau thương, bất khuất như một bản anh hùng ca về cuộc đời Tnú, cuộc đời của dân làng Xô Man được kể trên cái nền chủ đạo là hình ảnh cây xà nu. Cây sa nu và rừng xà nu cũng giống như những con người, những linh hồn vừa là nhân chứng, vừa là người tham gia vào bản hùng ca, đồng thời chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, đau thương do tội ác của kẻ thù gây ra, nhưng rừng sa nu vẫn hiên ngang đứng vững. vẫn tồn tại bất chấp mọi đau thương: nó tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống mãnh liệt của con người. Làng Xô Man của đồng bào Tây Nguyên thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hình ảnh cây xà nu hiện lên trong tác phẩm đầy chất thơ hùng tráng. Mở đầu và kết thúc câu chuyện là hình ảnh “ngàn cây xa van” “sinh sôi nảy nở”, “rừng xavan ưỡn ngực lớn che chở cho xóm làng”… không gì khác chính là những đồi hàu nối tiếp chân trời “. Rừng xà cừ là biểu tượng cho con người. Cây được miêu tả như một con người so với con người, gợi lên những biểu tượng về cuộc đời, số phận và phẩm giá của con người – những thế hệ dân làng Soman đánh Mỹ.
Cây ưa ánh sáng và không khí, “vươn lên rất nhanh để đón ánh nắng”, Tnú cũng vậy, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng rắn như làng Xô Man đã chịu nhiều đau thương vì sự tàn ác của giặc: “Cả khu rừng bạt ngàn không một cây nào là không bị thương. Một số cây bị đốn hạ đến nửa thân, lao vun vút như vũ bão. Ở vết thương, nhựa cây chảy ra, ứa ra, thơm phức, lấp lánh dưới nắng hè oi ả, rồi dần dần bầm tím, đen kịt và đông lại thành những cục máu lớn.
Nhưng nó có sức sống rất mãnh liệt, không gì có thể tiêu diệt được: “Bên cạnh một cây vừa đổ, bốn năm cây con đã mọc lên, ngọn cây xanh mướt, hình mũi tên hướng thẳng lên trời”. , như bao thế hệ dân làng Xô Man lần lượt đứng lên. Khi anh Quyết hy sinh, có Tnú, có Mai: Mai ngã xuống giữa cuộc đời căng tràn nhựa sống, thì Dít lớn nhanh không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã: rồi các em Heng, các thế hệ sau của Dít cũng lớn lên, tiếp tục cuộc chiến. Đồng thời, ngược lại, ở nhiều chỗ tả người, nhà văn đã so sánh nó với cây ô rô.
Má “ngực căng như cây mâm xôi to”, vết thương trên lưng Tnú do bị giặc tra tấn “đổ ra một giọt máu, từ sáng đến chiều đặc sệt như nhựa rắn”. Bút pháp miêu tả đó tạo nên sự hài hòa, tương ứng giữa con người và thiên nhiên trong một thi pháp hùng tráng, tráng lệ. Nhà văn đã ví ông Mết như “cây mâm xôi lớn” bởi ông là người hiểu rõ sự gắn bó của cây với mảnh đất nơi mình sinh sống, hiểu rõ sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng cây cũng như của dân làng. Xô Man: “Không cây nào khỏe bằng thông đất ta. Cây mẹ đổ xuống, cây con lớn lên. Đoán chừng nó giết hết cả rừng rắn này!…”.
Cái cây gắn bó với con người và cuộc sống làng quê. Xà nu không chỉ hiện diện ở phần mở đầu và kết thúc, nó còn hiện diện xuyên suốt câu chuyện về Tnú và làng Xó Man của anh. Xà nu hiện diện trong cuộc sống hàng ngày như đã có từ ngàn đời nay của dân làng: Ngọn lửa xà nu trong bếp; ngọn lửa nơi đình làng quây quần dân làng, ngọn đuốc xà nu cháy sáng rực rừng đêm; khói hun bảng đen cho anh Quyết Đạt Tnú, em Mai học chữ…; Xà nu còn tham gia vào những sự kiện quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trên tay ông Mết và cả dân làng vào rừng lấy dao, mác, dụ, mã tấu mà đã được giấu kỹ, để chuẩn bị cho cuộc chiến. nổi dậy, và ban đêm làng Soman thức dậy, dưới ánh đuốc, mài giũa vũ khí; giặc đốt tay Tnu bằng giẻ tẩm nhựa xà phòng…; Cũng chính ngọn đuốc thắp sáng đêm cả làng nổi dậy, soi rõ xác mười tên giặc bị giết nằm rải rác quanh đống lửa lớn giữa sân làng…
Cây còn là nhân chứng cho sự giác ngộ, sự hy sinh thầm lặng, lòng dũng cảm, ý chí kiên cường của dân làng Xô Man: “Đứng bên gò bên con nước lớn. Suốt đêm, tôi nghe cả rừng Xao Man xôn xao, rung chuyển. Và lửa cháy khắp rừng.” Ánh lửa của con rắn soi sáng lời dặn của Quyết: “Người sống phải truyền tên, hiệu, dụ, rựa, tên, ná… rồi sẽ có ngày dùng”. Ngọn lửa rắn cốm đã thử thách ý chí và lòng dũng cảm của Tnú: “Nhựa thơm chẳng bằng… Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc… Máu anh mặn nơi đầu lưỡi…”. Lòng căm thù trong anh bùng cháy như nhựa xà nu sắc nhọn để “bàn tay hận thù” trở thành “bàn tay báo thù” bóp nghẹt tên thủ ác dưới hầm.
Câu chuyện được kể bởi ông Met mang phong cách sử thi. Những đêm kể chuyện dưới ánh lửa bập bùng chắc cũng giống như những đêm các già làng thường kể về các trường ca: sử thi truyền thống Tây Nguyên. Đó là nơi bắt nguồn âm điệu sử thi của Rừng xà nu. Cây nêu gắn liền với quá khứ, hiện tại, hào hùng, gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục, đời sống văn hóa của người Tây Nguyên, làm nên câu chuyện làng Xô Man đánh Mỹ lung linh sắc màu huyền thoại như Đăm khi San, Xinh Nha…
Có thể nói, hình tượng con hà là mô-típ chủ đạo của tác phẩm. Con hà trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man. Đó là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây mâm xôi và gán cho nó những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới để xây dựng nên bức tranh hùng tráng chống Mỹ cứu nước của những con người kiên cường, bất khuất giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
3. Phân tích hình ảnh cây xà cừ mẫu số 3
Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông viết rất hay, sâu sắc và chân thực về con người và Tây Nguyên hùng vĩ. Truyện ngắn “Rừng sa nu” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trung Thành khi ca ngợi Tây Nguyên hùng tráng. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh cây xà nu mang đậm bản chất, tính cách cho con người sinh sống trên mảnh đất này.
Xuyên suốt tác phẩm “Sầu rừng” là hình ảnh của cây, có thể xem đó là hình ảnh trung tâm, làm nền và cũng là nguồn cảm hứng bất tận để tác giả miêu tả thành công từng nhân vật. Sa nu là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, sống dai, kiên cường, bất khuất. Nhắc đến rắn rừng, người ta sẽ nghĩ đến những con người Tây Nguyên bất khuất, không chịu đầu hàng, luôn hướng về bảo vệ nền độc lập của mình.
Hình ảnh cây sa nu được tác giả lấy để đặt tên truyện, mở đầu truyện và kết thúc cũng là hình ảnh cây sa nu ngút ngàn. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lấy hình ảnh này, chắc hẳn tác giả có dụng ý riêng. Nó vừa thể hiện sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Nguyên, vừa khẳng định ý chí kiên cường của con người Tây Nguyên.
Trước hết, cây nêu là biểu tượng của núi rừng Tây Nguyên, gắn liền với cuộc sống của người Tây Nguyên. Cây xà nu gắn liền với cuộc sống của người dân làng Soman, sự trưởng thành của mỗi thế hệ người Tây Nguyên đều gắn liền với hình ảnh cao quý này. Đó là Tnu, Mai, bà Mết và bé Heng. Những con người ấy, để bảo vệ dân làng, bảo vệ Tây Nguyên, đã phải đánh đổi, hy sinh rất nhiều. Xà nu là loài cây mọc thẳng, vươn mình ra ánh sáng, cũng giống như con người Tây Nguyên luôn hướng về phía trước dù khó khăn, thử thách đến đâu. Dường như con rắn là linh hồn của Tây Nguyên, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người.
Không chỉ vậy, cây còn tham gia ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử của dân làng Soman. Ngọn đuốc rắn dẫn đường cho dân làng Tây Nguyên, mười ngón tay của Tnu bị đốt bằng nhựa rắn. Cây nêu đã ăn sâu vào tâm khảm mỗi người, tượng trưng cho tinh thần, ý chí của người Tây Nguyên. Người ta vẫn nhắc đi nhắc lại trong mỗi câu chuyện rằng “không gì bền bằng”, dù có bị đốt cháy đến đâu, nó vẫn kiên cường trước bão táp thời tiết.
Xà nu là hình ảnh ẩn dụ chỉ người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả khu rừng rắn bị bắn và đốt cũng giống hình ảnh dân làng Soman bị áp bức, bóc lột dã man. Những mất mát, đau thương cứ chồng chất khiến tiếng than thở cứ nối dài, không nguôi. Dù bị đạn tàn phá nhưng cây vông vẫn kiên cường, chịu đựng; Cũng giống như hình ảnh của Mai, Tnu dù bị tra tấn nhưng vẫn cố gắng và chiến đấu đến cùng bằng sức sống ngoan cường của mình.
Xà nu và người Tây Nguyên dường như có mối quan hệ đồng điệu, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đây cũng là dụng ý của tác giả khi xây dựng hình ảnh mạnh mẽ như vậy. Người dân Tây Nguyên luôn khát khao hòa bình, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tác giả đã gửi gắm niềm mong mỏi đó qua hình ảnh cánh đồng lúa bao la, bát ngát.
Xà nu là loại cây có khả năng sinh trưởng tốt, bền bỉ và dẻo dai. Bao nhiêu thế hệ đồng bào Tây Nguyên đã ngã xuống, bao thế hệ khác đã nối tiếp và phát huy tinh thần chiến đấu. Những thế hệ người già như Tôi, rồi Tnu và cuối cùng là bé Heng, tất cả họ đều có những khát khao cháy bỏng về tương lai.
Chắc hẳn bạn đọc sẽ chú ý đến hình tượng nhân vật Tnu. Cây nêu và Tnu là hai hình ảnh song song, đi đôi với nhau để nâng đỡ nhau, làm nổi bật nhau. Những tính cách tiêu biểu của con cá lóc cũng là những tính cách của nhân vật Tnu không lẫn với ai.
Bằng tình yêu Tây Nguyên và óc quan sát tinh tế, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công hình ảnh cây dẻ gai có sức ám ảnh người đọc từ đầu đến cuối tác phẩm. Xà nu khiến người ta có cái nhìn ngưỡng mộ về mảnh đất và con người Tây Nguyên.
4. Phân tích hình ảnh cây xà cừ mẫu số 4 ngắn gọn nhất
Nếu như trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành – bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng với “Đất nước đứng lên”; Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra ác liệt, Nguyễn Trung Thành đã cho ra mắt bạn đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này là một bản anh hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật nhất trong tác phẩm là hình ảnh cây xà nu. Cây xà nu là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Sự tích rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Xuyên suốt tác phẩm, ta bắt gặp những rừng rắn nối tiếp nhau chạy đến tận chân trời. Cây sa nhân là loại cây quen thuộc, có mặt trong đời sống sinh hoạt của người dân Tây Nguyên. “Củi cháy trong bếp lửa mỗi gia đình, khói nhuộm bảng đen con học chữ, đuốc soi sân Ung những đêm hội…”. Mọi hoạt động dù lớn hay nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Cuộc sống của dân làng Xô Man gắn liền với những cánh rừng sa nu.
Khi Nguyễn Trung Thành viết: “Làng nằm trong tầm đại bác của giặc, theo lệ mỗi ngày chúng bắn hai lần, hoặc sáng sớm và chiều tối, hoặc chập choạng tối, hoặc nửa đêm và sáng. gà đã gáy. . Hầu hết đạn đại bác của địch đều rơi xuống những ngọn đồi gần con nước lớn”, nhà văn đã phản ánh không khí căng thẳng của thời cuộc, gợi lên sự đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên bối cảnh đó, Nguyễn Trung Thành đã miêu tả sâu sắc sự xuất sắc đặc điểm của cây xà cừ.
Cũng giống như nhiều loài cây xanh khác, cây sa nữ là loại cây ưa sáng và không khí. “Trong rừng ít loài cây nào sinh sôi, nảy nở tốt như vậy…ít loài cây nào ưa sáng như vậy” cũng có nghĩa là khát vọng sống, khát vọng vươn lên bầu trời cao rộng . Nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt đó, cũng như nhiều khu rừng khác của Việt Nam, rừng sa nữ bị tàn phá rất dữ dội. Có cây bị chặt ngang thân, lao đi như vũ bão; Nơi vết thương, nhựa chảy ra đầm đìa, thơm phức, long lanh dưới nắng hè gay gắt, rồi dần dần thâm đen và đông lại thành những cục máu lớn.
Tuy nhiên, bất chấp mọi sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh, cây tùng vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “bên cạnh thân cây đổ có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh tươi, hình mũi tên nhọn hoắt như mũi tên bắn thẳng lên trời .” Dáng vươn mình mạnh mẽ của những con hàu như thách thức bom đạn chiến tranh “đẩy chúng về giết xà beng đất ta” Sức sống mãnh liệt đã giúp những rừng mâm xôi bừng lên một màu xanh tươi, hiên ngang kiêu hãnh như một anh hùng” và cứ thế, hai ba năm sau, rừng mâm xôi ưỡn bộ ngực lớn của mình ra để bảo vệ người khác. dân làng Soman”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công và rõ nét hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình ảnh cây xà nu trong mối quan hệ song hành với người dân Tây Nguyên. Nếu cây sa nu là loài cây ưa sáng, ưa khí trời thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin Đảng, đi theo cách mạng như muôn cây vẫn hướng về phía ánh nắng.
Nếu cây xà cừ bị bom đạn, khói lửa tàn phá, tàn phá thì đồng bào Tây Nguyên phải gánh chịu biết bao đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra. Biết bao người bị giặc giết như cây tre bị chặt nửa thân, biết bao người còn sống nhưng phải mang bao nỗi đau. Bằng việc khắc họa hình ảnh cây cối và con người trong mối quan hệ nước đôi như vậy, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác man rợ của kẻ thù, qua đó giúp tác giả hình dung rõ hơn về những thảm cảnh mà nhân dân ta phải gánh chịu vì quân xâm lược. chiến tranh gây ra.
Cũng như những cánh rừng của quê hương, như những người Việt Nam vẫn ý thức rằng:
“Lưỡi gươm nào chia đôi dòng Bến Hải?
Ngọn lửa nào có thể đốt cháy cả dãy Trường Sơn?
Ghét thúc đẩy hận thù
Máu kêu máu van về đầu”
Các thế hệ người dân Tây Nguyên đã thay nhau đứng lên. Ánh sáng của niềm tin “Đảng còn, núi nước còn” đã soi đường cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này sa ngã, thế hệ sau đứng dậy; Ông Sứt và bà Nhàn bị giặc giết nên đi tiếp tế nuôi nghĩa quân đã có Tnú và Mai. Cứ như vậy, các thế hệ người Tây Nguyên thay phiên nhau gìn giữ ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc, giữ nước của dân làng Soman nói riêng và của đồng bào Tây Nguyên nói riêng. được chia sẻ.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà cừ hiện ra, đồng hành cùng bước chân và cuộc sống của người dân làng Soman. Gắn bó với rừng xà nu anh dũng, người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh đứng lên đấu tranh. Và gắn bó với con người Tây Nguyên bằng sự ân nghĩa, thủy chung, thủy chung ấy. Cây xà cừ cũng luôn đồng hành với họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để “đa số đạn đại bác của đồn địch rơi trên đồi rắn, bên cạnh con nước lớn” chứ không phải nhằm vào người dân vô tội.
Cây xà nu là hình ảnh lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất và số phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, hào hùng, làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng được hình ảnh đó, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn gợi tả, những từ ngữ, hình ảnh đặc sắc được chọn lọc, nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, giọng điệu gợi tả. trong công việc rất linh hoạt. Đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của hình tượng cây xà nu. Hình ảnh này đã góp phần tạo nên một “Sầu rừng” trọn vẹn, thấm đượm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà.
5. Phân tích hình ảnh cây xà cừ mẫu số 5
Tây Nguyên là xứ sở của văn hóa cồng chiêng và sử thi hoành tráng. Chính mảnh đất này đã thổi sức sống vào văn Nguyễn Trung Thành và để lại nhiều dấu ấn qua “Rừng xà nu”, “Đất nước đứng lên”… Truyện ngắn “Rừng xà nu” ra đời vào mùa hè năm 1965 tại giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang đi vào giai đoạn ác liệt. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi hình tượng cây xà nu – đại diện cho thiên nhiên và con người Tây Nguyên hào hoa, bất khuất.
Tác phẩm “Rừng rắn” ra đời vào mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Tác phẩm được in trong tập “Trên quê hương Điện Ngọc anh hùng”. Bối cảnh của truyện cổ tích là vùng đất Tây Nguyên với những con người anh hùng, trung hậu, bất khuất.
Hình ảnh cây xà nu được tác giả miêu tả xuyên suốt toàn bộ truyện. Trong truyện ngắn này, nhà văn không chỉ mở đầu và kết thúc truyện bằng hình ảnh rừng sa nu “tới chân trời” mà còn gần hai chục lần nhắc đến “rừng sa nu”, “cây sa nu”, “xà nhựa nu”, “lửa sắc xà nu”, “đuốc sa nu”. làm bảng đen để bác Quyết dạy Tnú, Mai học chữ Hồ…
Xà Nữ cũng tham gia vào những sự kiện quan trọng của đời sống làng Soman: ngọn đuốc cháy sáng trên tay Ma dẫn dân làng vào rừng sâu lấy giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa. Đêm đêm, cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc. Giặc đốt tay Tnú bằng giẻ tẩm xà bần… Vì vậy, người ta đặt tên tác phẩm là “Sự tích rừng xà nu” là rất hợp lý.
Hình ảnh cây xà nu qua ngòi bút của Nguyễn Trung Thành đã trở thành thành lũy vững chắc bảo vệ cuộc sống của làng Xô Man: Mỗi ngày giặc bắn ba phát đại bác vào làng, nhưng làng Xô Man vẫn yên bình vì “Đạn đại bác nhất”. tất cả đổ xuống ngọn đồi rắn cạnh con nước lớn, để đáp lại, để bảo vệ dân làng, rừng sa nu đã phải chịu biết bao đau thương, mất mát: “Trong cả cánh rừng ngàn cây, có không cây nào không bị thương, có cây bị đạn đại bác chặt đứt nửa thân, lao đi như vũ bão”. Ở một chỗ khác, người viết mô tả kỹ hơn: “Có những cây si to bằng ngực người bị đạn đại bác chặt đứt đôi, nhựa cây còn trong, dầu còn loãng, mới năm mười ngày. cây chết”.
Bằng nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ tượng trưng, tác giả thể hiện được nỗi đau thương, mất mát của dân làng Soman đồng thời tố cáo tội ác của kẻ thù. Viết về nỗi đau của cây mà ta ngỡ như nỗi đau của con người. Mỗi cái cây đổ xuống khiến tôi có cảm giác như một người Soman bị đổ. Phải chăng đó là hình ảnh của ông Xứt, bà Nhạn, mẹ con bà Mai, ông Quyết… đã ngã xuống trước bàn tay tàn bạo của kẻ thù. Nhưng đau đớn thay, cây xà cừ vẫn hiện lên bởi vẻ đẹp thăng hoa đến ngỡ ngàng của nó. Đẹp ở mùa thu anh dũng, bất khuất “đổ như vũ bão”. Đẹp bởi đường nét, màu sắc, hình khối, trong đau đớn nhưng vẫn còn hương thơm và ánh sáng “nhựa nơi vết thương rỉ ra, đầy hương thơm ngào ngạt, long lanh dưới nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm tím, đen kịt và đông đặc lại thành cục máu lớn.
Cây xà nu sức sống mãnh liệt là hình ảnh tượng trưng cho lẽ sống và phẩm chất của người dân Sôman nói riêng và Tây Nguyên nói chung: bằng bút pháp miêu tả của tác giả, tác giả đã đem đến cho người đọc sức sống hoang dã và mãnh liệt. của rừng sa nu: “Hiếm có cây nào trong rừng sinh sản và phát triển tốt như thế. Bên cạnh một cái cây vừa đổ, bốn năm cây con đã mọc lên, ngọn xanh tốt, mũi tên hướng thẳng lên trời.
Nỗi đau nối tiếp nỗi đau, hết kiếp này đến kiếp khác, nhưng sự sống của con rắn là bất tử, bất diệt, không một thế lực nào, không một bom đạn nào của kẻ thù có thể tiêu diệt được. Như một hệ số nhân “một mùa thu”, “cây con bốn năm mọc lên” một cách bất chấp và kiêu hãnh. Như lời cụ già nói: “Xứ ta không cây nào khỏe bằng con hàu. Cây mẹ đổ, cây con mọc, không biết chúng có giết được cả rừng rắn này không”.
Thế hệ này ngã xuống, thế hệ khác đứng lên thế chỗ, tiếp tục đánh giặc. Người dân Soman cũng vậy: khi Xút Bá Nhan hy sinh, thế hệ của Mai và Tnu lớn lên tiếp tục xông vào mưa bom đạn viết tiếp trang sử của làng. Mai sa ngã khi tuổi trẻ sung sướng mãnh liệt, nhưng khi lớn lên Dit nhanh chóng trở thành bí thư chi đoàn. Sau đó, thế hệ trẻ của Heng đang tiếp bước cha mình. Tất cả tạo ra một nhóm các tin nhắn trùng lặp.
Một vẻ đẹp khác của cây xà cừ đó là cây ưa nắng, ưa tự do. Cuộc sống của nó là sự vươn lên để tồn tại. Dựa vào đặc điểm đó, một lần nữa Nguyễn Trung Thành lại khiến người đọc rung động trước những câu văn đầy trong sáng và ngát hương. Cây rất khao khát ánh sáng và không khí: “nó vươn lên rất nhanh để đón nhận ánh nắng chiếu từ trên cao xuống thành những luồng lớn thẳng tắp, vô số hạt bụi vàng bay ra từ nhựa cây thơm như màng”. Đó là tiếng gọi của tình yêu tự do. Như Tnú, như dân làng Sôman yêu tự do, khao khát ánh sáng, họ cầm giáo, gươm, quyết bảo vệ bầu trời tự do ấy.
Và còn có những cây khác trong rừng vững vàng không khuất phục trước mưa bom bão đạn: “Có cành lá xum xuê như chim đủ lông đủ cánh Đạn đại bác không giết nổi Vết thương chóng lành như ngày nào Thân hình cường tráng, ba năm như vậy, rắn rừng ưỡn ngực lớn che chở cho dân làng”. Hình ảnh cây rừng ấy làm ta liên tưởng đến hình ảnh Già Me, đến sức sống của Tnu, của Dít…
Đó là vẻ đẹp của bức tường đồng kiên cố, tấm thép vĩ đại của làng Soman. Vì vậy, trong 5 năm qua, không có cán bộ nào bị địch bắt, giết ở khu rừng thôn này. Bởi rừng xà cừ đã mang vẻ đẹp “Rừng che bộ đội, vây quân thù”. Tất cả nối tiếp nhau lập thành đội trùng điệp chạy đến chân trời.
Tương đồng với vẻ đẹp của rừng rắn là vẻ đẹp của con người Soman bất khuất và kiêu hãnh. Bên cạnh ý nghĩa hiện thực, rừng Xà Nu còn là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của người dân Tây Nguyên. Phải chăng đó là vẻ đẹp của bà Mết, người truyền và giữ ngọn lửa tinh thần cách mạng với chân lý sáng ngời “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Là vẻ đẹp của người anh hùng Tnú với tinh thần nén đau thương để biến thành sức mạnh nổi dậy. Là vẻ đẹp của Dít với đôi mắt to trong veo, điềm tĩnh, ngày Mai mất, Dít như một cái cây nhanh chóng trưởng thành và nhanh chóng trở thành bí thư chi bộ cùng ông Mết lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc. Vẻ đẹp của bé Heng, tuổi còn trẻ măng, chưa chín nhưng thần thái “vũn như trái lê”…
Có thể nói, hình tượng con hà nổi bật xuyên suốt tác phẩm, truyện mở ra ở vẻ đẹp mãnh liệt của sức sống trước nỗi đau mất mát để rồi khép lại bằng hình ảnh dũng sĩ bất khuất. Ngoài “bốn hoặc năm cây đã bị đốn hạ, vô số cây non đang mọc lên.” Mới trồng mà tinh thần chiến đấu rất mạnh mẽ “Có cây mới nhú lên khỏi mặt đất nhọn như lê”.
Tóm lại, hình tượng con hàu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Nó được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ để gợi cho người đọc hình ảnh con người Tây Nguyên yêu tự do, tràn đầy sức sống, bất khuất, trung kiên, thủy chung với Cách mạng. Như vậy, hình tượng cây xà nu đã được tác giả bộc lộ nhiều tầng nghĩa mới giàu tính thẩm mỹ và ý nghĩa nhân văn, trở thành linh hồn của tác phẩm. Do đó, tác giả đã đưa ra câu chuyện của mình. Cái tên thật có ý nghĩa: “rừng xà nu”.
(Nguồn: Thầy Phan Danh Hiếu)
IV. Kiến thức bổ sung Bài viết Khu rừng xà nu
1. Hoàn cảnh sáng tác Rừng xà nu
– Tác phẩm được viết vào năm 1965 khi giặc Mỹ đổ quân vào vùng biển Chu Lai – Quảng Ngãi. Đó là lúc người viết muốn viết bài “Lính đánh tướng” trong kháng chiến chống Mỹ để động viên, cổ vũ nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ.
– Truyện đã đăng trên tạp chí Giải phóng quân miền Trung, sau đó được in trong tập Trên quê hương Điện Ngọc anh hùng.
2. Sơ đồ tư duy phân tích hình ảnh cây vầu
Trên đây là hướng dẫn làm chi tiết bài văn Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong
Thể loại: Giáo dục