Phân tích hai câu cuối bài thơ ngắm trăng của Hồ Chí Minh
Dạy
Chỉ đến câu thơ thứ ba, ánh trăng mới hiện ra trực diện trước đôi mắt say đắm của quản ngục:
“Ai nhìn trăng soi qua cửa sổ,
Trăng nhòm nhà thơ ngắm cửa”.
Cảnh ngắm trăng ở đây rất đặc biệt. Nhất là trong sự giản dị không có rượu có hoa. Đặc biệt bởi thân phận của người ngắm trăng không phải là kẻ nhàn du, kẻ mặc khách mà là một tù nhân bị giam cầm, xiềng xích trong bốn bức tường với muôn ngàn gian khổ. Nhưng tâm hồn người tù ấy đã vượt qua bốn bức tường của nhà tù để mở rộng lòng chào đón người bạn đặc biệt của mình một cách chân thành và tha thiết. Tất cả bắt nguồn từ một hành động nhắm mục tiêu kỳ lạ; nhìn nhau qua song sắt nhà tù. Hai câu thơ chữ Hán diễn tả đầy đủ cảnh trăng đặc biệt này:
“Nhân hóa hướng khán giả hai mặt tiền,
Nguyệt cùng khán giả động viên nhà thơ”.
Hai chữ đầu của hai câu thơ là hình ảnh của người và trăng (Nhân – trăng, trăng – thi nhân) và giữa hai vế của mỗi câu, giữa trăng và quản ngục là một khung cảnh ngục tù tàn bạo. Hiện thực tàn khốc của nhà tù vẫn len lỏi vào đời sống tinh thần của những người tù. Dường như muốn chia cắt người tù và vầng trăng. Tất cả làm nên cuộc sống trong tù và khiến buổi ngắm trăng trở nên trong trẻo, sinh động. Tại đây, người tù đã một lần nữa vượt qua và chinh phục được thực tại tù đày. Người tù ấy đã quên đi cuộc sống gian khổ bị chôn vùi trong ngục tù để tâm hồn được siêu thoát, bay bổng, hòa quyện với vẻ đẹp của ánh trăng. Động từ “chỉ đạo” không chỉ là chuyển động của một cái nhìn mà là sự đánh thức của một tâm hồn say đắm. Dường như trăng hiểu tâm hồn quản ngục, hiểu tình cảm chân thành của quản ngục nên cũng có hành động đầy cảm động:
“Nguyên tuân, khuyến khán”.
Ánh trăng xuyên qua nhà ngục để nhìn lại, chia sẻ với người quản ngục. Ánh trăng như đôi mắt, như khuôn mặt con người, có linh hồn, có tình cảm và chứa chan sự đồng cảm. Dâu trăng vốn chỉ là một thiên nhiên, một vẻ đẹp chỉ để thưởng thức, nhưng ở đây trăng đã trở thành người bạn tâm tình, tri kỉ của quản ngục. Hành động của vầng trăng là hành động của những người bạn đã thấu hiểu tâm hồn nhau. Trăng nhìn người, người nhìn trăng. Và giây phút hiệp thông thiêng liêng ấy đã làm tan biến mọi đau đớn, nhọc nhằn, đen tối của kiếp tù tội. Tâm hồn con người nhẹ nhõm, thăng hoa khiến người tù biến thành thi nhân. Từ “người” trong câu thơ thứ ba Bác dùng để chỉ người ngắm trăng, nhưng đến chữ cuối bài thơ, người ngắm trăng đã biến thành thi nhân. Có một điều lạ, bài thơ Nhìn trăng là một trong số ít bài thơ Bác tự nhận mình là nhà thơ. Cuộc sống trong tù là vô nhân đạo. Nhưng đằng sau đó, không chỉ đơn giản là một trái tim biết rung động trước vẻ đẹp vĩnh hằng của tạo hóa, mà còn là một tâm hồn mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, dám vượt qua hiện thực trần trụi của ngục tù. hài hòa với thiên nhiên, đất trời. Nếu không phải là một tâm hồn nghệ sĩ, không phải là bản lĩnh thép của một người chiến sĩ kiên cường thì Bác đã không thể vượt lên chính mình trong hoàn cảnh đó.
Ngắm trăng là bài thơ chứa đựng nhiều sức nặng, bài thơ mang vẻ đẹp cổ kính, tráng lệ. Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác cũng là một nét đẹp của tâm hồn yêu đời, khao khát tự do.