Dạy
Đề bài: Phân tích – Bình luận đoạn trích Đại Việt ta nước ta (trích Bình Ngô Đại Cáo) của Nguyễn Trãi.
Phân công
Như chúng ta đã biết, cáo cùng với nấc, chiếu là văn bản mang tính chất hành chính chính thức của ban hoặc trình bày, giải thích một chính sách hoặc thông báo một sự việc. Ở đây, Nguyễn Trãi dùng từ Đại Cáo vì sự kiện mà bài nói tới là một sự kiện lớn: việc bình Ngô. Bài tường thuật nói riêng và bài văn nghị luận nói chung đòi hỏi phải chặt chẽ, trong trường hợp này tác giả vừa lập chiến lược vừa bàn luận về cuộc chiến. Nó vừa là lịch sử, vừa là ý thức hệ. Làm sao để kết hợp giữa bề nổi và ẩn sâu, điều này không đơn giản chút nào. Trình bày bằng lời, bài cáo gồm bốn phần: chân dung quốc gia Đại Việt; tội ác của kẻ thù; khởi nghĩa thắng lợi; Một trang lịch sử mới mở ra theo thứ tự của văn miêu tả và tường thuật thông thường. Dựa vào đó, sự phân tích không phải là không có lý do. Nhưng văn bản còn có tầng ý nghĩa thứ hai, đó là chuyên chở tư tưởng của người viết. Chính tư tưởng (mạch chìm) của người viết đã tạo nên nghĩa kép cho bài, làm cho câu văn, câu chữ tỏa sáng, lung linh, lay động lòng người từ đó xứng đáng là một “thiên cổ hùng văn”. mà người xưa ca tụng.
Đặt đoạn đầu của bài văn trong bố cục chung, vấn đề cần phân tích để rút ra: sự tồn tại của quốc gia Đại Việt là một chân lý vĩnh hằng. Đất nước đó có hệ tư tưởng riêng và sức mạnh riêng, nghĩa là các yếu tố tinh thần nằm trong một hệ thống song song với các yếu tố vật chất như địa lý, đất đai. Vậy cụ thể tư tưởng đó là gì? Đừng vội trả lời rằng đó là đạo lý làm người, cho dù câu trong bản báo cáo là “Nhân hòa, dĩ hòa vi quý”. Vì nhân là học thuyết của Nho giáo về mối quan hệ giữa con người với con người. Nhưng đến Nguyễn Trãi, nó được nâng lên, mở rộng trong một mối quan hệ khác: giữa các quốc gia, các dân tộc. Cũng như sau này, cách Nguyễn Trãi 5 thế kỷ, Hồ Chí Minh, trong Tuyên ngôn Độc lập, đã “nới rộng” (“Nói rộng ra, câu ấy có nghĩa là…”). Từ quyền sống của một cá nhân con người, từ đạo lý mà cá nhân đó nên tuân theo, sự “bung chiết” như vậy là hợp lý với logic tư duy, nhất là nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của nhân dân. Dân tộc ta, một dân tộc là đối tượng dòm ngó của bao thế lực bên ngoài từ đông chí tây, từ nam chí bắc. Nhân nghĩa là đối lập với bạo ngược. Nhân nghĩa là tình và lý đối với nhân dân. “Trừ bạo” vì “yên dân” là nhân đạo, đó là nói chung. Đặc biệt, khi đất nước bị xâm lăng, vì lòng thương dân (dân), vì lẽ phải và lẽ phải (chính nghĩa), đội quân đó trở thành “quân trừng phạt”. Nhân loại không còn là khái niệm bao dung, mà là diệt trừ cái ác. Chỉ bằng cách loại bỏ cái ác, chúng ta mới có thể đạt được hòa bình. Tính chặt chẽ trong lập luận nổi bật rõ nét giữa hai mặt đối lập và thống nhất. Hai câu kết như bao hàm một chân lý thiêng liêng, người nói như trời nói, nghĩa là cùng một “sách trời” (hai chữ sách trời trong Nam Quốc Sơn Hà). Chính sự mở rộng khái niệm nhân nghĩa này mà Nguyễn Trãi đã đưa vào một khái niệm rộng lớn hơn: văn hiến. Chủ quyền đất nước không chỉ dựa trên yếu tố lịch sử, đất đai, mà chủ yếu là quốc gia đó thực sự có một nền văn hiến. Đó là dấu ấn của một nền văn minh. Văn hóa phi vật thể này là sự bổ sung quan trọng cho tinh thần dân tộc. Nước Đại Việt không chỉ có “Núi sông đã chia” (cùng ý trong bài Nam quốc sơn hà) mà còn có “Nam phong tục Bắc cũng khác”. Cái nữa là chúng ta, dân tộc ta đã nâng quan niệm làm người thành lẽ sống, thành đạo đức, thành bản lĩnh và nhân cách của chính mình. Đó là nơi bức chân dung tinh thần của quốc gia Đại Việt bị chìm xuống. Và chính vì lẽ đó mà Nguyễn Trãi có thể tự hào: nước nhỏ mà sánh vai được với nước lớn:
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần cả đời dựng nền độc lập,
Cùng với các nhà Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế mỗi phương.
So với bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thời Lý, lòng tự hào, tự tôn đã được nâng lên một bậc, được nâng lên bởi một ý thức văn hóa nhất định. Tinh thần, hồn vía của “địa linh” đã tạo nên “nhân kiệt” thật tự nhiên. Cách nhìn lịch sử dân tộc với cái nhìn như vậy thật sâu sắc, đảm bảo cho một sức sống trường tồn bất khả chiến bại. Đoạn văn tự sự, đúng hơn là tự truyện, nếu hiểu sâu, có hai tầng nghĩa: giữa Nam Bắc triều không chỉ có sự tồn tại bình đẳng, mà còn có lý do tồn tại bình đẳng. hàng ngang. Muốn tồn tại bình đẳng, dân tộc Đại Việt phải trả bằng xương máu của mình, nhưng dẫu vậy, chúng ta thà hy sinh tất cả (theo lời của Hồ Chí Minh) để đổi lấy chủ quyền, độc lập, tự do. LÀM. Một điều nữa: nếu tính toán và cân đo một cách máy móc, bình quân thì lịch sử vùng đất phía Nam làm sao có thể dài bằng lịch sử vùng đất phía Bắc được? Cái mà Nguyễn Trãi nói là “dựng nước muôn đời”, hay “Như nước Đại Việt ta từ trước”, hay “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” thì làm sao chỉ mấy trăm năm mà so được với lịch sử nước Việt? Bao nhiêu ngàn năm kể từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc? Sự thiếu hụt về chiều dài thể chất đó đã được tâm lý tự hào bù đắp để cán cân không còn bị nghiêng. Nó có đủ sự cân bằng. Đoạn văn không nhằm chứng minh (chỉ nhằm mục đích tự sự) mà đóng vai trò là một lời tự biện (vấn đáp) hùng hồn, đó là do âm vang của chủ nghĩa yêu nước trong tự thân. ngôn ngữ. Đó là tiếng nói từ bên trong, tâm trí ngoài lời nói, lặn sâu dưới bề mặt với lời nói.
Đoạn văn có ý chứng minh thực sự bắt đầu bằng hai từ “Vậy”:
Để có thể:
Lưu Công tham công nên thua.
Triệu Tiết thích chết…
Nhưng nó chứng tỏ điều gì? Có lẽ cả hai, tư tưởng nhân nghĩa, một đạo lý làm người, ngọn cờ quân “phạt”, chủ quyền quốc gia đều dựa trên tư tưởng đó, tức là trên cơ sở của một nền “văn hiến”. từ lâu rồi”. Cuộc đối đầu lịch sử giữa chính nghĩa, phi nghĩa và quốc gia Đại Việt dựa trên tinh thần đó. Kẻ thù “thất bại”, “diệt vong” vì động cơ ích kỷ, vì “thích lớn”, “tham công tiếc việc”. ỷ vào tướng giỏi, quân đông, không “lấy nhân làm gốc” mà chỉ lấy “khôn làm gốc”, hậu quả tất yếu như vậy, ở đây vừa có nhân, vừa có tang chứng. của sự bại trận như hiện vật trong viện bảo tàng, đối với kẻ thù là nỗi ô nhục muôn đời, tiếng xấu còn lưu danh, nhưng với tôi, đó là minh chứng hùng hồn cho một phe cánh mà dân tộc Đại Việt đã đặt trọn niềm tin (tất nhiên cũng là tinh thần xả thân, ý thức và hành động xả thân – như Trần Quốc Tuấn đã nói (“Trăm thân phơi cỏ, nghìn thân bọc da ngựa”). Bạch Đằng, Hàm Tử với lịch sử dân tộc như những dấu son chói sáng làm nức lòng người Dù ở đâu cũng là nơi, Với quân thù, biết bao hoài bão, vinh hoa mãi mãi chôn vùi, nhưng đáng nói thêm: Lời tiên tri (hai câu đầu của báo cáo) đã được hoàn thành theo luật quả báo ngay lập tức. Cái chết của Ô Mã và Toa Đô đối với họ thật đột ngột, bất ngờ, không thể hiểu nổi. Đối lập với cái “chết bất đắc kỳ tử” ấy, ngay cả chúng ta cũng hiểu: chuyện gì đến thì phải đến theo quy luật. định mệnh, định mệnh.
Đoạn mở đầu của Bình Ngô đại cáo không dài, tuy nhiên nó vẫn là điểm tựa, là nền tảng lí luận cho toàn bài. Nó đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh dẫn đường từ điểm xuất phát. Đoạn văn ấy có tính khái quát rất cao: biến những gì đã xảy ra thành quy luật vận hành. Thắng bại là do nghĩ và làm thuận hay ngược với nó. Khép lại đoạn văn bằng hai câu “Việc xưa đã xét – Chứng còn ghi”, Nguyễn Trãi muốn biến lời nói của mình thành lời của sử gia, biến chủ quan thành khách quan, biến một hiện tượng cụ thể thành quy luật. quy luật muôn đời để mọi tính toán của con người nên suy ngẫm về nó. Bể nổi của bài văn là kỷ luật nghiêm minh, còn bề sâu thấm thía một đạo lý, một tư tưởng, một lẽ làm người: nhân nghĩa.