Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là một trong những kiệt tác thơ ca trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong đó, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng là một trong những phân đoạn có nội dung đáng phân tích nhất trong chương trình học, gây khó khăn cho nhiều học sinh trong quá trình ôn tập. Trong bài viết này, hãy cùng phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích để hiểu rõ hơn những điểm chính cần chú ý nhé!
I. Thông tin về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
1. Vị trí và thể loại của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
– Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích thuộc nội dung của phần II: Sự chuyển biến và phiêu bạt của Truyện Kiều. Để có thể nắm được nội dung khái quát của tác phẩm này, các bạn có thể tham khảo thêm Phân tích tác phẩm Truyện Kiều – Nguyễn Du
– Đoạn trích thuộc thể loại truyện thơ Nôm, được trình bày theo thể thơ lục bát.
– Bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, sống trong cảnh hiu quạnh chỉ có nước với trời đã khiến tâm trạng của Kiều vô thức dệt nên những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt vời.
2. Bố cục Kiều ở lầu Ngưng Bích
Bố cục bài thơ chia làm 3 phần, được viết dựa trên tâm trạng và hoàn cảnh của Thúy Kiều. Cụ thể được chia như sau:
Phần 1: 6 câu đầu – Hoàn cảnh đáng thương và tâm sự của Thúy Kiều
Phần 2: 8 câu tiếp – Kiều và nỗi nhớ cha mẹ, nhớ Kim Trọng – mối tình đầu
Phần 3: 8 câu cuối – Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích được bộc lộ qua cách cảm nhận của nàng về cảnh
II. Tóm tắt truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần thứ hai của Truyện Kiều, là một trong những đoạn văn xúc động nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Sau khi Kiều biết mình bị tên buôn người Mã Giám Sinh lừa dối và làm nhục, lừa vào lầu xanh, Kiều bị đày ải và buộc phải tiếp khách làng chơi. Kiều đau đớn, phẫn uất nhất quyết không nghe, thà tự tử chứ không chịu tiếp khách. Dù bị Tú Bà làm nhục, mắng nhiếc nhưng Kiều nhất định không bán rẻ danh dự, nhân phẩm để làm giàu.
Thấy Kiều từ chối tiếp khách, Tú Bà sợ mất “cả chì lẫn chài” nên lấy lời ngon ngọt dụ dỗ, dụ dỗ đưa nàng ra ở riêng tại lầu Ngưng Bích. Để làm được điều đó, nàng giả vờ chăm sóc Kiều. Không chỉ vậy, bà còn hứa sẽ gả cô cho một người đàn ông tử tế khi cô khỏi bệnh. Tuy nhiên, thực chất việc dụ Kiều vào lầu Ngưng Bích chỉ là một âm mưu nhằm giam nàng để nàng thực hiện một âm mưu buôn người còn đê hèn và tàn bạo hơn.
Đoạn trích là lời tự thuật, tâm sự của Kiều về một đêm ở lầu Ngưng Bích. Qua đôi mắt của nàng, cảnh vật hiện ra thấm đượm một nỗi buồn, hệt như nỗi tủi nhục, tủi nhục mà Kiều đang trải qua. Cảnh sắc đất trời dường như chỉ làm cho Kiều thêm cảm thấy cô đơn. Rồi cô nhớ đến cha mẹ già ở nhà không ai phụng dưỡng, cô tự trách mình bất hiếu. Cùng với nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ gia đình là nỗi nhớ quê hương. Và từ thực tế đó, đoạn trích được viết ra là lời than thở của Kiều cho số phận lênh đênh, bất trắc của chính mình.
III. Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích
1. Phân tích 6 câu đầu truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích: Hoàn cảnh đáng thương và nỗi lòng của Thúy Kiều
Sau bao biến cố và chia ly, lầu Ngưng Bích có thể coi là chốn bồng lai của Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ đẹp của trăng xa và trăng gần nhau”
– Hai chữ “khóa xuân” có ẩn dụ ngầm cho tuổi thanh xuân của Kiều. Thời gian nàng bị quản thúc ở lầu Ngưng Bích cũng là lúc “cánh cửa” vào tuổi thanh xuân của Kiều bị “khóa chặt”. Tuổi thanh xuân của nàng đã qua, nay nàng còn bị bán vào lầu xanh, tủi nhục biết bao trong tay bọn buôn người.
Đặc biệt, từ “chìa khóa xuân” tác giả sử dụng cũng có nhiều giá trị gợi tả. “Xuân môn” ở đây có thể hiểu là tác giả đang nói đến những cô gái đẹp, những tiểu thư trong gia đình quyền quý ngày xưa. Họ bị nhốt trong tuổi trẻ, sống khép kín trong sự bao bọc của gia đình cùng với những khuôn khổ, luật lệ khắc nghiệt mà xã hội áp đặt lên người phụ nữ. Từ “xuân xuân” được Nguyễn Du sử dụng hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh, xuất thân của Kiều, đồng thời có ý châm biếm để nói về cảnh ngộ éo le, trớ trêu của nàng.
Không gian vắng lặng, hiu quạnh khi chỉ có mình Kiều với vạn vật thiên nhiên mà không có bóng dáng ai khác:
– Kết hợp hai hình ảnh “trăng xa” và “trăng gần” tác giả đã gợi ra một không gian dài, rộng, cao, thăm thẳm vô tận. Đồng thời cho thấy sự lẻ loi, hiu quạnh của lầu Ngưng Bích.
– Qua câu thơ, người đọc có thể hình dung được vị trí lầu ngưng Bích khá cao. Đến nỗi từ lầu Ngưng Bích, Kiều có thể phóng tầm mắt ra xa để cảm nhận vạn vật thiên nhiên xung quanh.
– Có lẽ chỉ khi màn đêm buông xuống, Kiều mới được làm bạn với trăng, mới có thể nhìn rõ cảnh vật phía xa. Đêm chỉ còn mình Kiều, một mình hiện ra ánh trăng và núi rừng.
Khung cảnh quanh lầu Ngưng Bích hiện ra qua điểm nhìn của Kiều. Đó là hình ảnh một bầu trời bao la, rộng lớn, trống vắng và lạnh lẽo:
“Bốn phương xa rộng
Cồn cát vàng, bụi hoa hồng ở đó.”
Không gian trống trải, hoang vắng được thể hiện qua:
– Hình ảnh “cát vàng”, “bụi hồng” gợi cảnh đời tàn phai và cảnh sắc ngổn ngang hiện ra trước mắt Kiều:
- “Cồn cát vàng” là cồn cát nhô cao so với mực nước biển, thường ở gần bờ biển, nhìn từ xa có thể tưởng là núi cát.
- “Bụi hồng đằng kia” là cảnh con đường bụi bay vì đông người qua lại hay chỉ là gió thổi mạnh bụi mù mịt. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của Kiều, không ai biết đằng sau lớp bụi là con đường hay con người
Với từ “xa”, dường như từ góc nhìn của Kiều, nàng đang mong chờ một dấu hiệu của sự sống, đang tìm kiếm sự thân quen ở nơi xa lạ này.
– Kết hợp việc sử dụng cặp tiểu đối “mây sớm”, “đèn khuya” ở hai câu thơ đầu, tác giả đã cho thấy sự hiu quạnh, trống trải, mênh mang của cảnh vật từ lầu Ngưng Bích nhìn ra.
=> Qua câu thơ ta thấy những sự vật thiên nhiên mà Kiều miêu tả chỉ là sự tưởng tượng, phỏng đoán mơ hồ của chính nàng. Mọi thứ mờ ảo, không rõ vì quá xa và không gian quá rộng. Bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích, niềm vui duy nhất của Kiều là ngắm cảnh và làm bạn với vạn vật thiên nhiên. Tuy nhiên, trớ trêu thay, ngay cả vạn vật tự nhiên trước mắt cô cũng quá xa vời, bao la đến mức khó lòng chạm tới.
=> 4 câu thơ gợi ra một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bao la và bát ngát. Cái mênh mông đã làm nổi bật nỗi buồn chán, cô đơn, trống vắng mà nhân vật Kiều đang trải qua. Con người dường như trở nên nhỏ bé và khô héo hơn trong không gian này.
Chính sự hiu quạnh, nhạt nhẽo của cảnh thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích đã gợi lên nỗi buồn cho thân phận nhân vật:
“Xấu hổ với mây sớm khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia sẻ tấm lòng”.
Sử dụng điệp ngữ “mây sớm khuya” tác giả đã nói lên sự tù túng của lầu Ngưng Bích. Thời gian ở đây trôi như một vòng tuần hoàn, khép kín, giam cầm người Kiều không biết bao giờ mới thoát ra được.
Từ cảnh ấy, Kiều cảm thấy cay đắng, “bẽ bàng” cho thân phận của chính mình:
– Từ “nhục” được đặt trong ngữ cảnh của bài thơ, được hiểu là một cảm giác chán chường, buồn bã. Đồng thời cũng có nghĩa là xấu hổ, hổ thẹn khi Kiều vốn xuất thân trong một gia đình khá giả, là một giai nhân tài sắc vẹn toàn mà nay lại phải làm bạn với cảnh trong chốn lầu xanh và bị buôn bán. chèn ép
– Kiều bị đọa đày, bị giam cầm trong không gian và thời gian tuần hoàn vô tận. Hoàn cảnh này hoàn toàn trái ngược với cuộc sống êm đềm hạnh phúc của Kiều trước đó. Vì vậy, nỗi cô đơn tột cùng ở lầu Ngưng Bích khiến nàng cảm thấy “nhục nhã”.
=> Câu thơ “Ngượng ngùng mây sớm khuya” cho thấy chị vô cùng chán ngán cuộc sống không có gì mới mẻ. Cô đã chán cái cảnh sáng nhìn mây, tối nhìn đèn, lặp đi lặp lại không hồi kết.
– Cụm từ “như chia sẻ lòng mình” diễn tả tâm tư trong Kiều: có lúc nàng nghĩ đến tình, có lúc lại nghĩ đến cảnh. Qua đó, tác giả muốn nói đến nội tâm bấn loạn, tâm trạng thay đổi thất thường của Kiều, có lúc vì mê cảnh mà động lòng, có lúc vì cảnh mà động tình.
Đây là tài năng của nhà thơ khi viết một bài thơ có thể khiến tất cả chúng ta phải thể hiện nó theo nhiều cách.
=> Qua 6 câu thơ đầu, Nguyễn Du đã thể hiện tài năng xuất sắc của mình khi kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách tả cảnh ngụ ngôn và hệ thống hình ảnh ước lệ, ngôn ngữ biểu cảm. Từ đó, ông đã thành công trong việc khắc họa bức tranh thiên nhiên rộng lớn, tĩnh lặng, làm nổi bật hình ảnh nàng Kiều cô đơn, lẻ loi với muôn vàn nỗi nhớ ùa về trong tiềm thức.
2. Phân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: Kiều và nỗi nhớ mối tình đầu và nỗi nhớ cha mẹ
Một. Nhớ anh ta
Trong cảnh cô quạnh nơi lầu xanh, Kiều đau đớn nhớ lại mối tình thề nguyền với chàng Kim – một tình yêu mãnh liệt và trong sáng của nàng:
“Nghĩ người dưới trăng chén đồng,
Tin mù mịt chờ đợi ngày mai”
– Việc Kiều chấp nhận bán mình chuộc cha là để làm tròn chữ hiếu, nhưng cũng vì thế mà chữ tình dang dở. Vì thế, trước cảnh tủi thân, nàng lại nhớ đến Kim, mối tình đầu say đắm, mang trong mình cảm giác tội lỗi thường trực của một kẻ ngoại tình.
Đặc biệt, khi nói về nỗi nhớ người yêu của Kiều, thay vì dùng động từ “nhớ” Nguyễn Du lại dùng từ “ngỡ”:
– Khác với nỗi nhớ thông thường, từ “ngỡ” vừa là nỗi nhớ vừa là hình dung, là sự hồi tưởng của Kiều về hai ngày còn nồng cháy, tưởng tượng ra cảm giác yêu và được người mình yêu năm xưa. quá khứ.
– Dùng từ “chén đồng” để chỉ chén rượu mà Kiều và Kim Trọng một lòng một dạ uống dưới sự giám sát của ánh trăng.
– Trong “ý nghĩ”, Kiều hình dung thấy chàng Kim từ xa cũng đang hướng về phía mình. Kim Trọng đâu biết nàng đã bán mình chuộc cha. Có lẽ ông đang ngày đêm kiên nhẫn chờ đợi tin tức trong vô vọng: “Tin tức là vô ích chờ đợi ngày mai”.
Trong nỗi cô đơn, lẻ loi, Kiều “tưởng” như được nhìn thấy một đêm trăng đẹp nhất đời mình. Đó là đêm cô và Kim thề nguyền đính hôn với nhau. Thế nhưng, khi trăng còn, chén rượu thề chưa cạn, tình đã buộc phải chia ly.
“Trăng tròn trên trời
Đinh Linh hai miệng một lời song hành”
Nỗi nhớ chàng Kim càng da diết, Kiều càng xót xa và hiểu ra hoàn cảnh của mình:
“Bên trời góc bể bơ vơ
Nước son không bao giờ phai”.
– Bị kẻ xấu bán vào lầu xanh, Kiều bẽ bàng vì tấm lòng cao đẹp mình gìn giữ bao lâu nay đã bị hoen ố không biết bao giờ mới gột rửa sạch sẽ. Tuy nhiên, với tấm lòng thủy chung, nàng vẫn một lòng một dạ nhớ nhung Kim Trọng, coi chàng là tình yêu duy nhất của đời mình.
=> Qua đoạn thơ tác giả muốn nói rằng son môi của Kiều có thể bị hoen ố vì xã hội. Tuy nhiên, “dấu son” hay tấm lòng chung thủy của nàng dành cho Kim Trọng thì vô bờ bến. Từ đó ta càng thêm trân trọng tấm lòng vị tha, thủy chung của Kiều.
b. Nỗi nhớ cha mẹ ở xa
Nỗi tủi nhục nhớ người yêu chưa nguôi, Kiều lại nhớ đến cha mẹ ở quê xa:
“Tiếc người tựa cửa ngày mai
Quạt lạnh ủ nồng nồng của ai bây giờ
Sân cách mấy bước nắng mưa,
Cỏ khi chết gốc mới được người ôm”.
Nhìn cảnh ấy, Kiều chạnh lòng khi nghĩ đến cảnh không được phụng dưỡng cha mẹ già ở quê:
– Sử dụng động từ “tiếc thương” tác giả đã diễn tả chính xác tâm trạng của Kiều khi nhớ đến cha mẹ. Cô chạnh lòng khi hình dung bố mẹ già yếu, hàng ngày tựa cửa chờ tin con, lo lắng cho mình.
Trong nỗi nhớ nhung, nàng tự trách mình là phận làm con mà chưa làm tròn chữ hiếu:
Sử dụng hệ thống thành ngữ, điển cố, tác giả gợi rõ nỗi nhớ nhung, lòng hiếu thảo của Kiều đối với cha mẹ.
– Thành ngữ “quạt ấm nguội lạnh” bộc lộ nỗi day dứt khôn nguôi của Kiều khi không thể một mình phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ già. Là con gái lớn trong gia đình lại không ở cùng bố mẹ, chị lo lắng không biết giờ này ai sẽ chăm sóc bố mẹ khi thời tiết thay đổi.
Trong nỗi nhớ, cô mường tượng sự đổi thay của quê hương, rồi mường tượng cảnh “chết gốc đã được người ôm vào lòng”. Dù thời gian ở lầu xanh của cô là một vòng quay chật chội nhưng với cha mẹ cô, thời gian khiến họ già đi và yếu đi từng ngày. Tuy nhiên, Kiều đã không thể phụng dưỡng và làm tròn bổn phận của một người con khiến nàng vô cùng day dứt.
Sử dụng cụm từ “mấy ngày nắng mưa” tác giả nói lên sự xa cách trong không gian và gợi sức mạnh của thời gian đối với cảnh vật và con người.
=> Thông qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, tác giả đã thể hiện một cách chân thực và sinh động nỗi nhớ của Kiều đối với Kim Trọng và cha mẹ, qua đó thể hiện nhân cách đáng trọng của nàng. Trong hoàn cảnh bị bán sang lầu Ngưng Bích, đáng thương nhất chính là Kiều. Nhưng thay vì than thở cho số phận của mình, cô hướng sự chú ý đến những người gần gũi nhất với mình. Điều đó chứng tỏ, nàng không chỉ là người tình thủy chung, người con hiếu thảo mà còn là người có tấm lòng vị tha, cao cả.
3. Phân tích 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích: Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích được bộc lộ qua cách cảm nhận về cảnh vật.
Trong nỗi nhớ, mỗi cảnh vật hiện ra qua góc nhìn của Kiều đều đượm một nỗi buồn sâu thẳm:
– Nét độc đáo trong việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại và nghệ thuật điệp ngữ: Mỗi cặp sáu quãng tám tạo thành một cảnh, được tác giả miêu tả, liên kết bằng hình ảnh ngụ ngôn “buồn trông”.
– “Buồn nhìn” thể hiện hành động nhìn xa xăm của nhân vật trong lòng mang một nỗi buồn. Cái nhìn mơ hồ khao khát những điều không có thật, là một niềm hy vọng hão huyền
– “Buồn trông” diễn tả tâm trạng hoang mang, lo lắng của một cô gái ngây thơ, lần đầu lạc vào dòng đời nghiệt ngã, lần đầu sống trong hoàn cảnh bấp bênh không lối thoát.
Ở cảnh đầu tiên:
“Buồn nhìn khung cửa nát chiều
Một con thuyền căng buồm thấp thoáng phía xa”
– Cách miêu tả gợi lên bức tranh cảnh chiều tối trong ánh mắt của người nhớ nhà. Khoảng thời gian “chiều” khiến Kiều cảm nhận được nỗi buồn thân phận
Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “cánh buồm” giàu giá trị biểu cảm, tác giả đã đồng thời thể hiện ngoại cảnh song song với nội tâm nhân vật:
– Giữa bể, cánh buồm bé nhỏ, lặng lẽ, lẻ loi giữa không gian bao la, rộng lớn, lẻ loi trong tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà.
– Con thuyền trong điểm nhìn của Kiều càng xa dần rồi khuất dần. Không ai biết khi nào con thuyền ấy sẽ tìm được nơi neo đậu.
– Từ hình ảnh “chiếc thuyền” ta nhận ra điểm chung với số phận của Kiều. Cuộc đời chị từ nay cũng trôi nổi giữa dòng đời đầy biến động, không biết đến bao giờ mới có dịp hội ngộ, đoàn tụ với những người thân yêu.
=> Cảnh thứ nhất phản ánh nỗi buồn nhớ quê hương của một kẻ bôn ba như Kiều. Trong văn học cổ, không gian buổi chiều thường gắn với nỗi buồn man mác. Trong trường hợp của Kiều, nỗi buồn ở đây là nỗi nhớ mong một ngày đoàn tụ.
Trong cảnh thứ hai:
“Buồn thay nước mới
Hoa trôi về đâu?”
– Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “trôi hoa trôi” tác giả đã làm rõ nỗi buồn và thân phận lênh đênh, lênh đênh của Thúy Kiều.
Sử dụng câu hỏi tu từ, tác giả như xoáy vào tâm hồn người đọc những ưu tư, phiền muộn của kiếp người mong manh, phiêu bạt. Đồng thời thể hiện sự mất phương hướng, lo lắng, khắc khoải của nhân vật.
– Hai chữ “đi về đâu” cuối câu thơ tạo cảm giác xa vắng, bâng khuâng, giống như hoàn cảnh của Kiều lúc này. Vốn Kiều tìm đến thiên nhiên để vơi đi nỗi đau trong lòng, nhưng càng ngắm cảnh, nàng càng thấy hoang mang.
– Hai câu thơ tạo nên một bức tranh tương phản với tiên cảnh: Một bên là không gian cửa bể khi thủy triều lên, một bên là hình ảnh những cánh hoa trôi lững lờ trôi. Qua đó, tác giả làm nổi bật sự nhỏ bé, lênh đênh của cả con thuyền và những cánh hoa phai màu, gợi nhớ về cuộc sống đầy bất trắc của người dân trong cảnh.
=> Nội dung của cảnh thứ hai mang ý nghĩa ẩn dụ cho số phận nghiệt ngã, lênh đênh giữa cuộc đời Thúy Kiều, tương lai vô định, không biết sẽ trôi dạt về đâu.
Trong cảnh thứ ba:
“Thật buồn khi nhìn cỏ buồn
Chân mây xanh đất xanh”
– Qua khung cảnh này, người đọc dễ liên tưởng đến cảnh thiên nhiên mùa xuân vào tiết Thanh minh xuất hiện trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”. Tuy nhiên, thay vì “cỏ xanh tận chân trời” tràn đầy sức sống thì ở khung cảnh này, cỏ đã mang hình ảnh “cỏ buồn nội” với màu xanh khô héo, thiếu sức sống trải dài từ mặt đất đến tận chân. đám mây.
– Các nét không gian lần lượt xuất hiện qua các hình ảnh “cỏ trong”, “chân mây”, “mặt đất” từ đó gợi ra một không gian bao la, rộng lớn khiến Kiều sống trong một cuộc đời cô độc, không lối đi. bỏ trốn
– Sử dụng từ “sầu”, tác giả vẽ nên một vùng cỏ cây héo úa, gợi nỗi buồn hiu quạnh. Khung cảnh nơi xứ lạ dường như cũng giống tâm trạng của Kiều, nhuốm một màu tâm tư của một kiếp phiêu bồng, khiến cho nỗi “sầu” ấy cứ vương vấn, lan tỏa khắp không gian.
Cách dùng từ “xanh” đã góp phần gợi tả một màu xanh nhợt nhạt, xa xăm, tê tái. Cũng là màu xanh, nhưng khác với màu xanh của mùa xuân, màu xanh trong tòa nhà Ngưng Bích mang một nỗi buồn thăm thẳm.
=> Sự im lặng bao trùm khiến không gian trở nên ngợp, hiu quạnh, làm nổi bật tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Cảnh vật xung quanh mờ ảo như tương lai của Kiều, thấm đẫm nỗi cô đơn, nhỏ bé của thân phận.
Ở cảnh cuối cùng:
“Thật buồn khi thấy gió thổi vào mặt bạn
Tiếng sóng vỗ ầm ầm quanh ghế”
– Bức tranh thiên nhiên được miêu tả qua những hình ảnh dữ dội, sóng gió: Gió hất mặt đi; Sóng ầm ầm thủy triều. Tiếng sóng to đến nỗi Kiều còn cảm thấy sóng biển đang vây lấy mình. Tiếng sóng dữ dội như thay cho tiếng gào thét của lòng người khi phải rơi vào cảnh tủi nhục, tê tái.
– Hình ảnh thiên nhiên nổi giận là một ẩn dụ, một lời cảnh báo về những biến cố khủng khiếp sắp ập xuống cuộc đời Kiều. Đó có thể là số phận sắp chôn vùi cô hay một tương lai đầy sóng gió đang chờ cô ở phía trước.
– Cách quan sát cảnh vật từ xa đến gần, miêu tả màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động đã góp phần diễn tả diễn biến tâm trạng từ buồn bã, bấp bênh đến giông bão với những lo toan trong cuộc sống. nội tâm của Kiều
=> Giữa chốn xa lạ, Kiều chỉ có thiên nhiên như một người bạn để chia sẻ “nỗi lòng” cùng mình. Đó là lúc Kiều nhận ra nỗi tủi thân của mình.
=> Qua cảnh cuối, thiên nhiên được miêu tả rất chân thực, sinh động nhưng cũng mang góc nhìn chủ quan của nhân vật chính. Cảnh vật được thể hiện theo tâm trạng, áp dụng quy luật: “Cảnh không buồn/ Người buồn bao giờ vui”.
Nghệ thuật sử dụng trong 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích
– Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với hệ thống hình ảnh biểu cảm đã diễn tả nỗi buồn ngày càng lớn với nhiều sắc thái khác nhau. Từ cô đơn đến nỗi buồn vô tận, vô vọng
– Lối văn tả cảnh ngụ tình đặc sắc, với lối miêu tả “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”, câu thơ vừa là cảnh thực mà cũng vừa là tâm trạng. Cảm xúc của Thúy Kiều ảnh hưởng đến toàn cảnh mà nàng nhìn thấy. Trong đó, cảnh nào cũng u buồn, hiu quạnh
– Sử dụng thành công hệ thống từ gợi tả cảnh: tính từ, từ ghép
– Chuyển nhịp thơ 2 câu cuối: từ chậm buồn sang gấp gáp
– Sự tương phản giữa 2 câu cuối và 6 câu trước: âm thanh dữ dội đối lập với khung cảnh đìu hiu
– Hình ảnh được miêu tả từ xa đến gần theo sự thay đổi điểm nhìn của nhân vật
III. Tâm đồ Kiều trên lầu Ngưng Bích
Các em học sinh có thể tham khảo sơ đồ tư duy phân tích Truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây để nắm rõ hơn về bố cục khi phân tích đoạn trích đặc sắc này.
IV. Tóm tắt chung
1. Nội dung đoạn trích
Trích đoạn “Kiều trên lầu Ngưng Bích” miêu tả chính xác hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi, đáng thương của Kiều. Đồng thời, đoạn trích cũng phản ánh nỗi nhớ da diết về người thân và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều khi bị quản thúc ở lầu Ngưng Bích. Đoạn trích thể hiện giá trị nhân đạo của kiệt tác Truyện Kiều. Qua đó, Nguyễn Du đã bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc đối với số phận hồng nhan và tâm tư tình cảm của nhân vật.
2. Nghệ thuật sử dụng trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
– Thành công trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình – đặc sắc trong thơ Nguyễn Du
– Khả năng kết hợp từ ngữ, hình ảnh thơ tài hoa.
– Hệ thống từ láy được sử dụng nhuần nhuyễn trong 8 câu thơ cuối tạo ấn tượng cho cả đoạn trích
Sau đây là dàn ý chi tiết phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích thuộc bài thơ kinh điển Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc – Nguyễn Du. Ngoài tác phẩm trên, các em có thể tham khảo thêm bộ tài liệu Viết 9 do HOCMAI biên soạn để phục vụ quá trình Luyện thi môn Văn vào lớp 10 được hiệu quả hơn. Hy vọng bài viết trên đã giúp bạn hiểu rõ hơn về nội dung cũng như giá trị nhân văn được truyền tải qua tác phẩm!
Tìm hiểu thêm: Phân tích cảnh ngày xuân