Dạy
Đề bài: Phân Tích – Bình Luận Về Thuế Máu Trích Bản án của Nguyễn Ái Quốc về chủ nghĩa thực dân Pháp
Phân công
Là một phóng sự điều tra, Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm văn học báo chí. Sức thuyết phục của nó là những con số, những nhân chứng, những thống kê, tức là những sự thật không thể chối cãi. Người viết nó ở một vị trí khách quan mà không cường điệu. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, tác phẩm lại rất gần với văn học tượng hình, tức là những sáng tạo nghệ thuật bằng hàng loạt hình ảnh giàu sức gợi, bằng giọng điệu trào phúng, giễu cợt, mỉa mai. Sự kết hợp giữa các thể loại này đã dẫn đến một hiệu quả bất ngờ: tố cáo chế độ thực dân, vạch trần cuộc sống lầm than của nhân dân các nước thuộc địa. Lòng căm thù (đối với chế độ thuộc địa) và lòng yêu nước (đối với nhân dân các nước thuộc địa) là những nội dung văn bản thể hiện khát vọng sâu sắc, mãnh liệt của tinh thần đấu tranh, của ý chí chiến đấu. Cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của một nhà văn tài năng cũng là cuộc chiến đấu của một chiến sĩ cách mạng.
Thuế máu là một tiêu đề chương ấn tượng, biểu cảm, có sức gợi cao. Đây là một thứ thuế vô cùng phi lý, là một sự bóc lột dã man, trắng trợn đối với đời sống của thực dân. Chiến tranh phi nghĩa của bọn đế quốc là con đường nhanh nhất để làm giàu và bóc lột xương máu của bọn thực dân mà chúng mang nghĩa vụ khai hóa và bảo vệ chúng là con đường rẻ mạt nhất. Đó là những cuộc chiến mang lại lợi nhuận khổng lồ. Bóc lột mồ hôi là một tội ác. Bóc lột xương máu là tội lớn hơn. Bản chất tàn ác đó, lần đầu tiên được bộc lộ trên báo chí, bộ mặt của bọn thực dân vẫn là lũ dã thú trong thời đại văn minh. Sự phản nhân loại ấy được đưa ra ánh sáng, trước vành móng ngựa của lẽ thường. Trình tự và cách gọi tên các phần trong chương đầu của tác phẩm vừa theo trình tự thời gian, vừa là một quy trình công nghệ hoàn chỉnh đặt thân xác người dân bị đô hộ vào guồng máy chiến tranh (Chiến tranh và “dân bản xứ”; Chế độ lính tình nguyện; Kết quả của sự hy sinh) là vừa theo nguyên tắc nghệ thuật. Hình thức đầu cuối tương ứng trong cấu trúc (chẳng hạn hình ảnh cái lò gạch trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao) tạo nên sức rung động mãnh liệt trong tâm trí người đọc, người nghe. Máu xương mà thực dân phải trả cho các cuộc chiến tranh đế quốc là phi nghĩa. Sự lừa bịp của thực dân không còn bình phong, lời nói nào để che giấu.
Đầu tiên.Chiến tranh và những “người bản địa”.
Người bản xứ, trong con mắt của thực dân, chỉ là “bọn da đen bẩn thỉu”, “người An Nam bẩn thỉu”, không nghĩ gì đến chiến tranh, thậm chí không biết gì cả. về các cuộc chiến tranh. Cái họ biết chỉ là “kéo xe bò đánh quan nhà ta”. Vì vậy, khi họ đột nhiên nhận được một vinh dự đặc biệt, một danh hiệu tối cao, chính họ cũng không thể hiểu được. Hóa ra chiến tranh nổ ra, họ là vật hy sinh, phải nộp một thứ thuế không có trong văn bản luật thông thường: thuế máu. Bọn đế quốc ngày nay không hoàn toàn giống bọn đế quốc ngày xưa ở chỗ chúng khôn ngoan hơn. Không phải “uốn lưỡi diều hâu, sỉ nhục triều đình, lấy thân dê chó ức hiếp cha” (Hịch tướng sĩ), họ đã lừa bịp dân đen bằng những lời ngon ngọt. Buộc phải tuân theo (không nghe thì có roi, có tù), những người dân đen đó lập tức phải rơi vào cảnh bi đát: xa gia đình, quê hương, hy sinh vì danh, lợi. ý chí của kẻ cầm quyền. Những người ở lại hậu phương cũng giống như những người ra trận “dù sao” nhưng chạy lên trời trước chiến tranh “để bảo vệ công lý và tự do mà bản thân họ không được hưởng chút nào”, sự mỉa mai sắc sảo, mỉa mai trong lời nói, trong giọng điệu, nhất là trong những mối quan hệ không liên quan gì nhau, thậm chí đối lập nhau, dẫn đến những hệ lụy gây cười, một cách gây cười trí tuệ, cảm thụ sâu sắc của khán giả. Chưa kể một phong cách châu Âu, đặc biệt là văn học Pháp, đã tạo nên sự hội nhập giữa văn học Việt Nam và văn học thế giới, mà tác phẩm đầu tay.
2.Chế độ lính tình nguyện
Bản thân cụm từ “chế độ tự nguyện” là một sự giễu cợt nhằm che đậy một sự thật bên trong hoàn toàn trái ngược. Cũng như sau khi công việc bắt lính hoàn thành, Toàn quyền Đông Dương long trọng và vui mừng tuyên bố: “Các anh đã tòng quân, không quản ngại xa rời quê hương, nếu thương người khác thì hiến máu xương của mình như một người lính mặc khố đỏ, và một người khác sẽ đưa cánh tay lao động của mình như một công nhân.” Sự thật trong việc bắt lính đã bị nhà cầm quyền bóp méo, tô hồng một cách trơ trẽn. Đó là một sự lừa đảo không có lương tâm để đánh lừa dư luận ủng hộ những người ủng hộ. Tuy nhiên (hay phải chăng) vì cảm thấy lập luận trên là một sự xúc phạm ghê gớm không chỉ đến tính mạng mà còn đến danh dự của con người – ở đây là nhân dân các nước thuộc địa, tác giả bài viết đã vạch trần ngay những động cơ thầm kín. đằng sau những từ kỳ cục. Lời nói nhẹ nhàng, nhưng sự thật đưa ra như cái tát vào miệng những kẻ không nói có mà không biết xấu hổ: “Nếu đúng là người An Nam náo nức nhập ngũ thì sao lại có cảnh hàng đoàn? Bị còng tay về tỉnh lỵ, nhóm thi trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, lính Pháp canh gác, lưỡi lê trần, đạn sẵn sàng?”. Bao nhiêu câu hỏi liên tiếp được đặt ra dưới dạng câu hỏi nhưng lại mang ý nghĩa tiêu cực, chẳng hạn tác giả nói về việc phản ứng quyết liệt chế độ quân dịch bằng biểu tình, bạo loạn “ông là thằng nào?” bày tỏ sự háo hức nhập ngũ không chút do dự?”.
Tuyên truyền chủ trương bắt lính và sự thật về việc bắt lính hoàn toàn trái ngược nhau. Đối với quan tỉnh (mà tác giả cố ý dùng từ “chúa tỉnh”) thì chỉ cần ra lệnh nhẹ nhàng về số lượng và thời hạn là đủ. Trình tự đó không cần hướng dẫn chi tiết, chẳng hạn như tiến hành như thế nào, đối tượng bị bắt là ai? Tác giả bài báo có một bình luận mà như lời chú thích trong ngoặc đơn nói về những bộ mặt có vẻ dễ dãi, nhân từ của các quan chức cấp tỉnh: “Làm sao, không quan trọng. Quản lý thế nào cũng được”. Thế là như một phản ứng dây chuyền, đèn xanh được bật lên, cấp dưới được tự do bước vào, một sự giúp đỡ đầy hào hứng, một kho kinh nghiệm được mở ra, bởi vì về điều này thì “các tướng lĩnh gì cũng biết, nhất là chuyện kiếm tiền. ” Chỉ tội nghiệp những người bị bắt. Có người chết “không kêu cứu được nữa”, có người bị tạm giữ phải chọn một trong hai cách “tự nguyện hoặc đưa tiền”.
3.Kết quả của sự hy sinh
Dấu hiệu kết thúc chiến tranh không phải là sự im tiếng súng đại bác sau khi “ngán ngẩm thịt vàng”, mà là sự im lặng của “bọn quan lại nhà ta”. Họ cũng phải im lặng, bởi thân xác và mạng sống của những người sống sót trở về như món hàng lỗi thời. Trong mắt nhà cầm quyền, họ không còn là “chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”, họ trở về nguyên trạng sau khi nộp thuế máu cho bọn thống trị, họ mặc nhiên trở lại “bẩn như vại”.
Công lao của những người dân nghèo đó không bị lãng quên. Cách duy nhất mà họ (chính quyền) nhớ, chính nạn nhân của họ không mong đợi. Đó là sự tước đoạt trắng trợn tất cả những gì mà người dân bản xứ mua được sau khi đã nộp đủ “thuế máu” trong chiến tranh. Chính những người đó đã bị đối xử như những con vật trước khi họ được chào đón (khi họ trở về quê hương) bằng một bài phát biểu “yêu nước” như: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt rồi. Bây giờ, chúng tôi không cần các anh nữa, ra khỏi!”. Đó là những nạn nhân của thực dân, còn chính người Pháp (những liệt sĩ và thương binh của họ) thì sao? Họ (hoặc người thân của họ) được cấp phép bán lẻ thuốc. Lời cảm ơn của người nhận quà, theo tác giả, không có cách nào khác hơn là “nhổ nước bọt vào mặt người tặng quà”, giống như việc nhổ nước bọt vào mặt toàn quyền Varen của Phan Bội Châu (Truyện cười hay) là Varen và Phan Bội Châu – Nguyễn Ái Quốc).
Toàn bài, xét về nghệ thuật, nổi bật nhất là văn trào phúng: ngôn ngữ trào phúng, ngữ điệu trào phúng, kết cấu, lập luận nhằm mục đích trào phúng. Tác giả của nó đã dùng đòn trực diện, đánh thẳng vào mặt để vạch trần trái tim của những kẻ mị dân, dồn họ vào chân tường không chỗ trốn. Còn cách đánh thì rất văn hoa, đã đạt đến độ thâm thúy.