Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Dạy
Tương tư là nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa. Nhưng ở đời, tương lai thường chỉ là nỗi nhớ một phía. Người này nhớ, nhưng đôi khi lại nghĩ rằng người kia thật vô tình, không biết, không muốn biết mình đang đau khổ vì tình. Thật vậy, nhớ là hiện thân của tình yêu: tâm hồn nhớ là trái tim yêu; Tâm trí đã ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Bởi vậy mới có người yêu nhưng chưa từng yêu. Nguyễn Bính cũng vậy! Chàng trai quê này đang yêu và đã trải qua tất cả các cung bậc của tình yêu, hay nói cách khác là đã bị dày vò bởi đủ các cung bậc của tình yêu.
Yêu nhau mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nỗi nhớ. Nhớ nhung, thực ra là mong muốn có nhau, được gần gũi. Khoảng cách về không gian và thời gian là lý do để yêu nhau. Vì vậy, về bản chất tình cảm, tình cảm là một khát vọng, một nỗ lực vượt không gian, vượt thời gian bằng tinh thần. Không gian và thời gian trở thành kẻ thù của những đôi tình nhân xa cách vô cớ. Và đây là những kẻ thù ngàn lần đáng ghét. Bởi vì trong tình yêu, khoảng cách dù ngắn ngủi cũng trở nên tuyệt vời gấp vạn lần; một khoảnh khắc cũng trở nên dài, sâu sắc. Đôi khi ngay cả một inch cũng trở thành vực thẳm. Ngay cả với người tình giàu linh cảm, dù chưa xảy ra cuộc chia ly nhưng đã khát khao yêu thương:
-Vừa nghe tiếng còi tàu
Trái tim tôi là Nam và Bắc
-Vì vậy, ngay cả khi tôi ở gần bạn
Nhưng lòng tôi vẫn nhớ.
(Xuân Quỳnh)
Trong thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói đến tình yêu đôi lứa ngàn năm. Ngay lời mở đầu đã vẽ nên một nét tương tư đầy cảnh làng quê:
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài trao gửi trái tim cho cô gái thôn Đông mà cuối cùng chàng trai thôn Đoài lỡ làng Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu ứng bất ngờ là hai miền không gian đang nhớ về nhau. Điều này không phải là không có lý do. Khi con người ta đang yêu, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn theo tình yêu, không gian xung quanh cũng đượm nỗi nhớ. Mọi người đừng nhìn bằng con mắt khách quan nữa! Khung cảnh nhuốm màu tương tư. Câu thứ hai là cụ Nguyễn Bính! Đó là giọng của người kể chuyện. Mỗi câu thơ được viết bằng chữ! Không gian tương tác rất rõ ràng. Các câu có xu hướng dài, được làm dài hơn bởi giọng của người kể chuyện và chứa đầy các thành ngữ. Mỗi người đứng ở đầu một câu thơ, sâu lắng và diệu vợi. Giữa họ là một không gian tuyệt vời. Tình yêu đôi bên bắc một cây cầu “chín nhớ mười mong”, nảy sinh từ đầu này và níu kéo, mơ mộng đến đầu kia. Tiếp theo là giải thích:
Mưa gió là bệnh của trời,
Tình yêu là căn bệnh của tôi, tôi yêu cô ấy.
So sánh mình với Chúa, ngu ngốc như vậy cũng không sao. Vì cả hai đều mắc cùng một bệnh. Giời và tôi hóa ra là hai kẻ bệnh hoạn. Nhưng đó không phải là tất cả, bản ngã này cũng đang muốn hạ thấp thế giới trong sự so sánh đó. “Mưa gió là bệnh của Trời”, thì bệnh ấy là tật, là tật xấu, Trời bày cho – bệnh nội sinh sẵn có! Còn “Yêu là bệnh của tôi, tôi yêu cô” là bệnh “sính ngoại” mắc phải. Kể từ ngày yêu cô ấy, tôi đã mắc phải căn bệnh này. Coi tình yêu là một “căn bệnh”, chỉ có thể kể ra những nỗi khổ của bản thân mắc bệnh. Nếu căn bệnh này đã mắc phải, thì… không có cách nào chữa khỏi cho tôi. Trong câu thơ có tiếng chấp nhận một thực tại, một quy luật tất yếu không thể cưỡng lại. Bản ngã xuất hiện vừa là kẻ si tình vừa là nạn nhân sẵn sàng mang bệnh tật, khổ đau vào thân. Phải chăng khi yêu, mọi lời nói chân thành đều trở nên khôn ngoan như vậy? Trí tuệ đó có… dễ thương không?
Dường như mối quan hệ thường bắt đầu bằng một câu chuyện, một lời giải thích và rồi không mấy ai dừng lại ở đó. Sẽ vẫn có trách móc, có oán hận, sẽ có hờn dỗi đơn phương, có muốn đòi hỏi, v.v.. cũng là đơn phương. Điều đó có nghĩa là căn bệnh tình yêu sẽ trở nên tồi tệ hơn từng ngày. Điều “lạ” nhất, cũng là một không gian ấy, nhưng khi tôi đã kể nỗi khổ của mình – kể cho chính mình, thì nó bỗng dài ra vô tận, ngược lại, khi tôi trách móc, “kể thù” thì nó thu hẹp lại đến tận cùng:
Hai làng chung một làng,
Sao bên đó không qua đây?
Mở ra “thôn Dọi ngồi nhớ thôn Đông” tưởng như ngàn trùng trùng khơi. Đến đây thì hóa ra trở ngại đã hoàn toàn biến mất: tuy có hai làng nhưng thực ra chỉ có một làng. Tâm lý yêu nhau mới lạ! Khoảng cách là thế, nhưng nó co giãn và biến hóa!
Nhưng coi chừng, hay nhất vẫn là tự thuật về thời gian:
Ngày qua ngày, ngày qua ngày,
Nhuộm lá xanh đã thành lá vàng
Xưa, miêu tả mối tình Kim Kiều, Nguyễn Du cũng nhìn thấy cái nghịch lý trữ tình của thời gian:
Nỗi buồn càng run, càng đầy,
Bố đã dọn dẹp một ngày dài.
Một ngày mà tưởng bằng ba mùa thu. Như thế có quá… nghiêm trọng không! Dù sao, đó vẫn là một câu chuyện tình yêu được kể bằng giọng kể của một người kể chuyện, bên ngoài. Còn thơ Nguyễn Bính, vẫn còn đó sự nôn nóng, băn khoăn của người trong cuộc, hệt như lời của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày chầm chậm trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố ý trêu đùa. ! “Ngày lại ngày”, câu thơ có 3/3, chia làm hai vế, vế này lặp lại vế kia theo cùng một cách. Chữ “lại” hàm chứa một sự ngán ngẩm. Vừa hi vọng vừa thất vọng. Mỗi ngày mới đến thắp lên một hy vọng, để rồi cuối ngày hy vọng lụi tàn thành vô vọng. Tất cả gợi lên nhịp điệu hoạt động lặp đi lặp lại, rời rạc của những ngày chờ đợi, mong mỏi nhưng vẫn vô vọng. Câu thứ hai tả một người nôn nao chờ đợi bên một gốc cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc lộ tâm trạng của mình với một gốc cây nào đó. Không rõ đây là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu. Hay là cây si tình). ?!). Người yêu và cái cây có một mối quan hệ kỳ lạ. Thời gian với người yêu không phải là vô hình. Nó có một màu: vàng héo. Mỗi ngày trôi qua đều để lại dấu ấn cổ tích trên vòm lá. Cây như ý lịch tự nhiên. Hơn thế nữa, cây là nhân chứng của mối tình, là người bạn tâm tình thầm lặng của người yêu, là nạn nhân của căn bệnh thất tình hay là đồng phạm? – nạn nhân của sự thờ ơ của người khác. Anh đợi em khi cây còn xanh, đến bây giờ cây đã vàng hết, nhưng… Đợi cây héo, người héo!
Cái cây đó là một hình ảnh khác của anh ấy! Cái cây đó là bạn. Đó là cảnh yêu đương! Phải nói là từ “nhuộm” rất đắt. Cũng viết về cảnh cỏ đổi sắc, khi Thuý Kiều từ biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du viết:
Kẻ lên ngựa kẻ chia chiến hào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quýt.
Từ “nhuộm” rất động. Nói về sự chuyển đổi đang diễn ra, không đầy đủ. Nó cũng trực tiếp! Hình như cái màu này, từ sự ngăn cách ở câu trên chuyển xuống câu dưới, đã lan sang cảnh vật nên nó được “nhuộm màu”. Đó là sự lây lan từ tinh thần con người vào nhà máy. Từ “nhuộm” của Nguyễn Bính gợi thời gian. Bởi vì nó có vẻ yên tĩnh hơn. Quá trình tiến hóa đã hoàn tất: lá xanh đã biến thành lá vàng! sắc thái trần thuật sâu sắc hơn. Thời gian chờ đợi của anh thật dài, cho đến khi cái chậu đủ nhuộm một cây xanh thành một cây lá vàng! Thơ khổ lắm, nhiều ưu tư.
Phải chăng yêu nhau là gánh nặng từ một phía, càng nặng thì càng vô tình nghĩ đến “đối phương”. Vì thế, cung bậc tình cảm cứ thay đổi rất tự nhiên từ tự sự, than thở đến trách móc? Và lời trách móc thì ôi chao, đầy “quy kết” khó mà “thoát tội”:
Đảm bảo rằng con đường trở lại thuyền,
Không có cách nào là không có cách nào để đi.
Nhưng đây là một khối đi,
Có những yêu xa mù quáng…
Vẫn là cái “cãi” dễ ghét. Kể ra nỗi lòng của chính mình cũng là khoảng cách biến thành thâm trầm. Còn ở đây thì được “phủ nhận sạch trơn”: không có khoảng cách – không có đường qua sông, không phải không có đường bộ, mà dù gần thì cũng chỉ có một cái đình. Tất cả chỉ vì sự thờ ơ của tôi, không có lý do khách quan nào cả! Làm gì có ai chữ nào cũng gặp xui xẻo, “khủng khiếp” chẳng phải sao! Nhưng không có lý lẽ ấy thì làm sao mà “quy kết” cho người ta vô tình được! Sao những trái tim yêu thương lại có thể hồn nhiên “láu cá” đến thế! Chà, trong tình yêu, trái tim thường đưa ra những lời buộc tội dễ thương. Và khi “người ta” đã nhân danh sự đau khổ vì tình yêu thì nghe những lời buộc tội “khó chịu” thì dù có khó tính đến đâu cũng chỉ phải “chịu đựng” thôi, đồng nghĩa với việc thoải mái phải không anh?
Vẫn chưa hết trách móc:
Mối quan hệ đã được lên trong một vài đêm,
Biết cho ai, hỏi ai biết!
Bao nhiêu hận thù, bấy nhiêu khao khát, rằng:
Bao giờ bến gặp thuyền?
Hoa khôi, bướm giang hồ gặp nhau?
Và cuối cùng là lời khẳng định:
Nhà tôi có giàn giầu,
Nhà ông có một hàng cau liên buồng.
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Em ở thôn Đoài có nhớ giàu không?
Mọi thứ đã sẵn sàng và háo hức chờ đợi. Chỉ còn mình tôi! Thôn Đoài ắt bỏ thôn Đông, điều đó không còn gì phải nghi ngờ. Rồi làng doi biết nhớ làng nào giàu. Câu thơ chứa đựng một logic thật… nguy hiểm!
Như vậy, trong sâu thẳm tâm lý, thương nhau là mong muốn hạnh phúc lứa đôi, mong muốn trở thành một cặp. Nỗi nhớ mong ấy trào dâng trong giọng điệu khi kể lại, khi giận hờn trách móc. Khát vọng ấy còn gửi gắm vào đôi lứa ẩn mình trong suốt bài thơ. Lúc đầu, những ngọn đồi đó còn xa, sau đó chúng ngày càng gần hơn. Lần đầu tiên, năm 1990, khi viết cuốn Dạy tốt Ngữ văn 11 cho giáo viên, tôi chỉ nhận ra một nửa số cặp. Giờ đây, nhìn kỹ hơn, ta thấy có thêm những cặp đôi ẩn hiện trong suốt bài thơ:
Thôn Đoài – thôn Đông
Một người – Một người
Là anh ấy
Bên ấy – Bên này
Bến – Thuyền
Hoa Khuê Các – Bướm giang hồ
Ngôi nhà của tôi – Ngôi nhà của tôi
Và cuối cùng:
Trầu cau
Thật là một kết thúc thông minh!
Vòng vo, xa cũng gần, cuối cùng, họ vẫn tụ lại ở một thứ cần thiết nhất, trăn trở nhất: trầu – cau! Nhưng miếng trầu là chuyện của số mệnh. Một truyền thống rất nổi bật ở Nguyễn Bính là quan niệm về tình yêu. Là một nhà thơ mới, Nguyễn Bính không chủ trương tình yêu hiện đại với tình yêu gần, tình xa, tình nhất thời, tình ngoài cuộc như lối sống thời thượng bấy giờ. Các nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình yêu, ít quan tâm đến sự quyến rũ. Nguyễn Bính đúng là người nhà quê khi coi trọng những mối nhân duyên. Mối tình với nhà thơ này nhất định phải gắn với chuyện trăm năm, với hôn nhân. Tức là với cau – trầu. Thực ra những cặp ảnh đó chưa thành một cặp mà chỉ mới ở dạng tiềm năng, còn bỏ ngỏ và chờ đợi. Vâng, chờ đợi một “cứu tinh” duy nhất là Em. Khi bạn đến, trầu sẽ mọc lại và tất cả những đôi trai gái hờ khác sẽ trở thành một đôi. Bệnh tình sẽ được chữa khỏi! Đau khổ sẽ không còn dày vò! vân vân.
Nhưng bạn biết không, khi tất cả những điều đó đã xong, cũng là lúc cuộc tình bắt đầu… tan thành mây khói.