Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận gồm dàn bài chi tiết, sơ đồ tư duy và 20 bài văn mẫu hay nhất được trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong tuyển chọn từ những bài văn đạt điểm cao của học sinh lớp 11 trên cả nước. Từ đây các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng hay cho bài viết của mình, đồng thời nâng cao hiểu biết về hoàn cảnh ra đời và nội dung của bài thơ.
Đề tài: Phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận .
Tràng Giang là tuyệt tác thơ của nhà thơ Huy Cận tiêu biểu cho phong trào thơ mới được in trong tập Lửa thiêng xuất bản năm 1940. Với bài văn phân tích Tràng Giang hay nhất dưới đây, các em sẽ nhận thấy vẻ đẹp trữ tình vừa cổ điển vừa hiện đại của vùng đất rộng lớn. phong cảnh tự nhiên. Đồng thời cũng là tâm trạng của tác giả trong nỗi buồn xa quê, nhớ nhà.
Nội dung chính
Lập dàn ý phân tích bài thơ Tràng Giang lớp 11 hay nhất
Phân tích dàn ý bài Tràng Giang – Văn mẫu 1
1. Mở bài
- Vài nét về tác giả Huy Cận và đặc điểm thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám: Huy Cận là một trong những nhà thơ có nhiều đóng góp cho phong trào thơ Mới. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ ông mang nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn của một dân tộc ý thức sâu sắc cảnh ngộ của đất nước, của số phận con người.
- Giới thiệu về bài thơ Tràng Giang: Tràng Giang (trích từ tập Lửa thiêng) là một trong những sáng tác tiêu biểu và đặc sắc nhất của Huy Cận.
2. Cơ thể
a) Nhan đề và câu thơ của nhan đề
– Nhan đề: sử dụng từ Hán Việt với âm tiết mở gợi không gian cổ kính và tăng sức liên tưởng về sự mênh mông của non sông.
– Bài thơ của:
- Trời rộng”, “sông dài” gợi sự bao la, rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ bao la
- “xót xa”, “nhớ” – một cảm xúc xót xa, cô đơn, lạc lõng.
=> Ngay từ nhan đề và câu thơ nhan đề, tác giả đã gợi lên cảm xúc thấm đượm, xuyên suốt toàn bài thơ.
b) Câu 1:
– Thiên nhiên rộng lớn, bao la:
- Hình ảnh “sóng gợn”
- Hình ảnh con thuyền “con thuyền xuôi theo dòng nước song song” càng làm nổi bật thêm khung cảnh hoang vắng, hiu quạnh của cảnh thu.
– Tâm trạng của chủ thể trữ tình được bộc lộ trực tiếp: buồn điệp điệp, “buồn trăm bề”, tác giả đã diễn tả nỗi buồn dài tột độ, như không dứt, không bao giờ dứt trong tâm tưởng. của nhân vật trữ tình
c) Máy đo 2
- Bức tranh được hoàn thiện dần với những hình ảnh rất mới: cồn nhỏ, gió hiu hiu, làng xa, chợ chiều, bến đò hiu quạnh, miêu tả cảnh vật nhỏ bé, hiu quạnh, thoáng thấy cái vắng lặng, lạnh lẽo, cô quạnh đến choáng ngợp của cảnh vật nơi đây.
- Tiếng “tiếng chợ chiều” gợi sự mông lung, mục nát, hoang vắng.
- “Sông dài trời rộng bến hiu quạnh” nhấn mạnh nỗi cô đơn của cảnh vật và con người lạc lõng, trống trải, cô đơn.
d) Máy đo 3
- Khung cảnh thiên nhiên rộng lớn: nối tiếp hàng, bao la
- Hình ảnh “em bé” gợi sự bồng bềnh, vô định.
- Cấu trúc phủ định “không cầu” – “không thuyền” phủ định hoàn toàn những cách liên hệ với cuộc sống
đ) Cỡ 4
- Hình ảnh thơ cổ điển “mây”, “chim”, tác giả đã vẽ nên một bức tranh quê hương, đất nước,.
- Nỗi nhớ, tình yêu quê hương, đất nước của tác giả qua hai câu thơ cuối bài.
3. Kết luận
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
Phân tích dàn ý Tràng Giang – Văn mẫu 2
Đầu tiên. Mở bài Tràng Giang
– Giới thiệu bài thơ Tràng Giang và Huệ Căn
Ví dụ :
– Mở gián tiếp Tràng Giang
Có lẽ thiên nhiên bao la tươi đẹp luôn làm xao xuyến lòng người, nó xoáy sâu vào lòng người, khiến nỗi sầu càng thêm sầu, nên việc sử dụng vẻ đẹp bao la của thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng đã được nhiều nhà thơ sử dụng trong thơ ca trung đại. Nhưng Huy Cận đã tiếp thu phong cách ấy vào tác phẩm “Tràng Giang”, bổ sung thêm những nét mới của thơ hiện đại; Qua đó, Huy Cận đã tạo cho người đọc ấn tượng về không gian của tác phẩm
– Mở bài trực tiếp phân tích Tràng Giang
Huy Cận có những tác phẩm thơ nổi tiếng, mỗi bài thơ mang một phong cách riêng. Thơ Huy Cận có lối văn súc tích, khúc triết, phục vụ cách mạng nước ta. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là Tràng Giang, bài thơ trong tập thơ Lửa thiêng. Đoạn thơ tả cảnh mùa thu 1939, bài thơ được sáng tác khi tác giả nhìn ra bờ sông Hồng dưới mặt nước mênh mông. Chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thơ để biết thêm phong cách thơ Huy Cận.
2. Thân bài Phân tích Tràng Giang
a) Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên bao la, vô tận (Câu 1)
– Những vòng nước đuổi nhau đến tận chân trời
– Qua khổ thơ còn thể hiện nỗi buồn vô tận của tác giả.
– Sự lênh đênh, buông thả của tác giả trên dòng sông hữu tình
– Tâm trạng chia ly, phân tán
b) Luận điểm 2: Không gian và thời gian qua bài thơ (Câu 2)
– Không gian hoang vắng, hoang vắng
– Không gian yên tĩnh, tĩnh lặng
– Không gian được đẩy vô tận
– Cảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé
c) Luận điểm 3: Nỗi buồn cay đắng của nhà thơ
– Không có sự hài hòa và quan hệ giữa con người với con người
– Cái tôi cô đơn, trống rỗng, khao khát sự giao hòa, đồng điệu giữa người với người
– Bức tranh thiên nhiên thể hiện sự hùng vĩ, tráng lệ
– Nỗi buồn quê hương, đất nước, nỗi buồn sâu thẳm của tác giả
3. Hết Tràng Giang
– Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật:
- Nội dung: Tràng Giang bộc lộ nỗi niềm của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín nhưng nồng nàn.
- Nghệ thuật: Đoạn thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường Thi và yếu tố thơ mới. Chất Đường Thi thấm đượm những thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu (lưỡng nghi, song thất, tu từ điển tích,…)
– Nêu cảm nhận của em về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Ví dụ: Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Qua bài thơ ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên của tác giả.
Sơ đồ tư duy Tràng Giang phân tích
Viết luận theo sơ đồ tư duy Tràng Giang là một trong những cách làm bài khoa học, hiệu quả mà không thiếu điểm. Các em có thể tham khảo sơ đồ ngắn gọn dưới đây hoặc xây dựng sơ đồ chi tiết hơn theo cách hiểu của mình để phát triển bài văn tốt hơn.
Sơ đồ tư duy ngắn gọn phân tích bài thơ Tràng Giang (Huy Cận)
Từ sơ đồ tư duy và hệ thống dàn ý về Tràng Giang trên, các em có thể xây dựng bài văn cho đề văn phân tích bài thơ Tràng Giang. Các em đừng quên tham khảo nội dung bài học trong phần Soạn bài Tràng Giang để có cách soạn bài đầy đủ và sâu sắc nhất.
20 bài văn phân tích bài thơ Tràng Giang hay nhất, điểm cao
Những bài văn mẫu phân tích Tràng Giang dưới đây sẽ giúp các em hình dung dễ dàng hơn về cách triển khai nội dung bài viết cũng như mở rộng vốn từ trong quá trình làm bài. Cùng tham khảo ngay nhé!
Tràng Giang Tích – Mẫu 1
Huy Cận đã từng rất buồn Không biết nỗi nhớ đã tan chưa Hay lòng anh vẫn buồn man mác Cùng quê mà nặng núi sầu
Những câu thơ trên như gói gọn cả hồn thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Dường như mỗi câu thơ đều chất chứa những nỗi niềm xa xưa, ẩn chứa trong đó là tình cảm sâu nặng với quê hương. Huy Cận thường viết về thiên nhiên, vũ trụ về những lúc cô đơn, buồn tủi với sự kết hợp giữa chất cổ điển và chất hiện đại tạo nên vẻ đẹp riêng. Bài thơ Tràng Giang là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ, cho hồn thơ Huy Cận. Bài thơ không chỉ mang nỗi sầu của một mình cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, hiu quạnh mà còn thấm đượm nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín của nhà thơ.
Tràng Giang lấy cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu bên bờ nam bến Chèm, trước cảnh Hồng mưu sinh mùa nước nổi. Nhà thơ chứng kiến những cánh bèo, cành củi bồng bềnh giữa mênh mông nước đã gợi ngay ra ý thơ. Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn vô tận của nhà thơ khi đứng trước thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi lên chất cổ điển rất riêng của Huy Cận. Nhà thơ dùng một từ Hán Việt để đặt tựa cho bài thơ của mình. Từ Hán Việt có tác dụng lớn nhất là gợi không khí cổ điển, trang trọng và phảng phất thơ Đường. Không những thế, thay vì dùng “Trường Giang”, Huy Cận đã chuyển âm sang dùng Tràng Giang, hai âm “ang” đặt liền nhau như một âm mở vừa gợi chiều dài, rộng của không gian, vừa gợi sự bao la, rộng lớn. của nhãn. cảm xúc trong lòng người đọc. Bên cạnh đó, “Tràng Giang” còn có sức khái quát. Đó không phải là dòng sông cụ thể, không phải dòng sông của đời thường mà dường như đó là dòng sông của lịch sử, văn học, thi nhân và cả dòng sông của cuộc đời. Bước qua nhan đề, người đọc bắt gặp ngay một điệp từ “Vỡ trời rộng nhớ sông dài” như gói gọn cảm hứng của cả bài thơ. Đó là không gian của trời rộng, sông dài, là cảm giác thương nhớ da diết. Nên nếu cả bài thơ là một không gian rộng lớn thoáng chút buồn cũng hoàn toàn hợp lý.
Trong mạch cảm xúc ấy, khổ thơ mở ra một không gian sông rộng lớn:
Sóng lăn tăn gửi tin buồn Thuyền xuôi mái song Thuyền về lại buồn Củi cành khô nằm mấy dòng
Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng nhẹ nhàng lăn tăn, nối tiếp nhau đến vô cùng, vô tận, vô tận. Đoạn thơ sử dụng bút pháp “động tĩnh” của văn học trung đại. Chuyển động của sóng chỉ là một “gợn sóng” rất nhỏ tưởng như tan biến trong không gian bao la của sông trời. Con sóng đi cùng với dòng sông không còn là con sóng thực nữa mà dường như mang một tầng ý nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi nỗi buồn man mác trong tâm hồn con người trước không gian bao la. Cùng với hình ảnh sóng nước là hình ảnh con thuyền xuôi theo dòng nước. Hình ảnh này như gợi lên cuộc sống mới chớm nở của một lớp người nhỏ bé trong xã hội. Đây cũng là thể thơ quen thuộc gần như đã trở thành chuẩn mực trong văn học. Trong thơ Đường ta đã từng bắt gặp hình ảnh con thuyền và dòng sông đầy ám ảnh, nặng tình của người gửi gắm:
Cô tưởng tượng viễn cảnh vô tận Duyên Trường Giang Thiên Lưu (Lý Bạch)
Có khác chăng con thuyền của Huy Cận không còn là con thuyền đẹp tuyệt trần mà nó thấp thoáng cái mênh mông gợi sự xa cách, chia xa:
Thuyền về lại buồn Củi cành khô nằm mấy dòng
Con thuyền thì nhỏ và hữu hạn, còn dòng sông thì rộng lớn vô hạn. Cái hữu hạn lấn át cái vô hạn dường như càng làm sâu sắc thêm cảm giác nhỏ bé và cô đơn. Hơn nữa, thuyền và nước vốn gắn liền với dòng nước chảy, ở đây lại bị tách ra với hai chuyển động trái ngược nhau theo hai hướng khác nhau. Cặp từ ghép “điệp điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã làm nổi bật ấn tượng về nỗi buồn mênh mang trải dài trên mặt nước, càng có tác dụng khi tạo cấu trúc câu song hành để rồi ở câu thơ thứ ba, hai vế song song là đặt trong một câu thơ. “Lái thuyền” đối với “nước về” như nhấn mạnh cảm giác chia xa. Và phải chăng vì sự chia ly ấy mà dòng sông ngày càng buồn và lặng lẽ hơn?
Nếu ba câu đầu mở ra một không gian thơ Đường cổ điển thì câu thứ tư lại mang dáng dấp của thơ hiện đại:
Củi cành khô nằm mấy dòng
Trong thơ ca xưa, muốn gợi lên cuộc đời nhỏ nhoi của con người lênh đênh, các nhà thơ thường dùng hình ảnh bông hoa lênh đênh. Huy Cận đã chọn hình ảnh cành củi khô trôi giữa mênh mông nước để thể hiện điều đó. Thủ pháp đảo ngữ và cách ngắt nhịp 1/3/3 dường như nhấn mạnh hơn vào cành củi khô, nhỏ, héo úa, kiệt quệ. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi nguồn từ hình ảnh thực khi nhà thơ đứng ở bờ nam bến Chèm giữa mùa nước nổi, cành khô trôi từ thượng nguồn về bến sông. Nhưng có lẽ nó còn mang một tầng ý nghĩa ẩn dụ khác. Nó gợi nhớ về một lớp người thời bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này càng được làm rõ hơn với từ “lạc trôi” tưởng chừng như đang trôi bồng bềnh không mục đích, mất phương hướng. Một cành củi khô héo không còn sức sống nhưng vẫn giằng xé, lay lắt giữa mênh mông nước đời. Nó gợi lên hình ảnh một lớp người như các thi nhân trong xã hội cũ, những trí thức tiểu tư sản có ý thức về bản thân nhưng bế tắc, mất phương hướng trước hiện thực xã hội bấy giờ. Hình ảnh này thể hiện sự sáng tạo của Huy Cận khi ông đã đưa vào thơ một hình ảnh rất thực, sống động, tạo nên một hình ảnh mới có sức gợi, hiện đại, phá vỡ tính ước lệ, cổ hủ của thơ Đường. . Như vậy, khổ thơ đầu gợi ra không gian bao la rộng lớn của dòng sông, thân phận nhỏ bé lạc lõng trong cuộc đời của một lớp người và nỗi buồn mênh mang. Đồng thời, khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa hiện đại mới tạo nên một bức tranh thiên nhiên giàu sức gợi.
Nếu khổ thơ đầu là cái nhìn cận cảnh của nhà thơ trước dòng sông mênh mông để nhìn từng gợn củi khô trôi thì khổ thơ thứ hai là cái nhìn toàn cảnh sông dài trời rộng:
Bài hát nhỏ của gió cô đơn Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều? Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm Song Long trời rộng bến vắng
Hai câu thơ đầu tả cảnh chiều trên sông. Khung cảnh vắng vẻ và yên tĩnh. Ngòi bút điêu luyện của Huy Cận đã phác họa một bức tranh sông nước mênh mông đến rợn người. Nhà thơ điểm vào không gian bao la ấy một vài chấm nhỏ để tạo nên sự tương phản rõ nét giữa vũ trụ bao la và những điều thật nhỏ bé:
Bài hát nhỏ của gió cô đơn
Thủ pháp đảo ngữ đẩy từ “thơ” lên trên đã nhấn mạnh cảm giác thưa thớt, nhỏ bé của cồn cát. Cùng với đó là hai từ “lơ đãng”, “hoang vắng” đứng ở đầu và cuối câu thơ như gợi lên sự cô quạnh, hiu quạnh, hiu quạnh, hiu quạnh của cảnh vật. Những cồn cát nhỏ ven sông trong gió lau sậy hiu quạnh, hoang vu như khơi dậy trong lòng người nỗi cô đơn, buồn tủi. Không gian yên tĩnh ấy càng được nhấn mạnh:
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Chợ trong tâm thức người Việt gắn liền với niềm vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của người xưa. Vì vậy, đầu chợ và cuối chợ sẽ gợi lên sự trống vắng, buồn bã. Ở đây, thi nhân của cảnh sắc quê hương tiếp tục sử dụng biện pháp động để tả cái tĩnh. Âm thanh vang vọng nhưng chỉ là âm thanh từ xa vọng lại và cũng là âm thanh của buổi chợ nên tưởng chừng như không có gì, gợi lên sự tĩnh lặng hơn là ồn ào, tấp nập. Từ “đâu” ở đầu câu thơ tạo ra nhiều cách hiểu. Đó có thể là một từ để hỏi như đâu đó tiếng chợ chiều vọng tới, cũng có thể là một từ phủ định, có gì đâu, có tiếng chợ chiều nào không. Ngay cả tiếng chợ, tiếng chợ cũng biến mất mà hình như không có, bức tranh ấy hẳn vắng lặng và buồn bã biết bao. Một lần nữa, bút pháp cổ điển giúp tác giả gợi lên sự vô tận của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, sự tĩnh lặng của cảnh vật với những âm thanh nhỏ nhoi của cuộc sống. Từ sự tương phản ấy, hiện lên bức tranh buổi chiều, cảnh ngày tàn:
Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm Song Long trời rộng bến vắng
Câu thơ đầu như mở rộng không gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế và cẩn thận để thấy rằng mặt trời đã lặn, trời đã cao hơn. Không gian như được mở ra hai bề rộng bao la. Ngoài ra, sự chuyển động đối lập mang đến cho người đọc cảm giác mạnh mẽ về một không gian đang dần mở ra. Nhưng không dừng lại ở đó, “người dệt nên những vần thơ súc tích và triết lý” còn có cách dùng từ rất sáng tạo. Nếu thông thường chúng ta dùng từ “tháp” để chỉ độ cao thì ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu. Sự bất thường này đã mang lại một hiệu ứng tuyệt vời. Người đọc như nhận ra một chiều khác của không gian dòng sông đó là chiều sâu, không gian được đẩy đến tận cùng để tạo ra một chiều mới. Và phải sâu đến mức nào thì nhà thơ mới thốt lên “độ sâu bất tử”. Cách diễn đạt sáng tạo này càng làm cho khung cảnh thêm hãi hùng, nỗi cô đơn trong sự phản kháng của con người càng được tô đậm. Ở đoạn thơ sau, một lần nữa những chiều không gian được lặp lại trong sự vô tận của đất trời. Và không gian càng mở ra, cảm giác cô tịch càng được nhấn mạnh. Bến nhỏ xíu của bến lẻ loi như lạc lõng giữa đất trời, như lẻ loi đến cô quạnh. Như vậy, khổ thơ thứ hai trong cái nhìn bao quát cảnh vật của nhà thơ đã mở rộng không gian ra mọi chiều, đến giới hạn để rồi nhìn lại con người càng trở nên nhỏ bé, trống trải và cô đơn.
Nhìn ra hai bên bờ sông, nhà thơ phát hiện ra hàng loạt hình ảnh nhỏ khác của bờ sông và dường như chính những hình ảnh đó lại giúp nhà thơ tô đậm thêm nỗi cô đơn, lẻ loi, chia ly.
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác? Mênh mông không một con đò qua Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng
Hình ảnh cây bèo rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở đây, cánh bồng bềnh vẫn gợi lên những cảm giác mới lạ. Hình ảnh này diễn tả một cách sâu sắc sự hợp ly của kiếp người chứ không chỉ gợi sự nhỏ nhoi, mong manh, trôi dạt như trong thơ ca truyền thống. Hàng người nối tiếp hàng người trôi theo dòng người như bao mảnh đời lênh đênh trên dòng người. Cảm giác lênh đênh, trôi dạt vô định của một kiếp người càng làm cho nỗi buồn nhân lên trong lòng nhà thơ. Ở khổ thơ này, Huy Cận cũng nhắc đến thuyền và cầu. Đây là những hình ảnh gợi sự kết nối, giao lưu. Vậy mà tác giả nhắc đến những cái đó, không phải để khẳng định cái có mà để miêu tả cái không có, không có trong bức tranh sông nước. Không cầu, không thuyền, không người kết nối hay đó là sự cô đơn, hoang vắng đến tột cùng? Trong khoảng lặng ấy, không gian tiếp tục trải ra đến vô tận của bờ xanh bãi vàng. Bức ảnh thể hiện màu sắc không tối nhưng không thể làm cho khung cảnh sáng hơn, rực rỡ hơn. Dường như hai bờ sông là một thế giới tách biệt với đôi bờ khác, bèo cũng không biết trôi về đâu. Trước khung cảnh ấy, lòng người sao mà vui tươi, háo hức biết bao. Hay vì lòng người còn nhiều nặng trĩu suy tư mà cái nhìn với cảnh cũng đầy ưu tư?
Từ cách dẫn đó, khổ thơ thứ tư bộc lộ rõ hơn tình cảm của tác giả:
Mây cao đùn núi Con chim nhỏ: bóng hoàng hôn Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu đầu của khổ thơ mang đậm hương vị thơ Đường, nhuốm màu cổ điển. Đó là cảnh chiều tà, hoàng hôn với cánh chim và đám mây, những chất liệu rất quen thuộc trong thơ ca:
– Con chim đêm bay về núi (ca dao)
– Con chim ngày về rừng (Nguyễn Du)
– Chúng cao vô tận
Nàng vẫn một mình (Lý Bạch)
Ở đây chim và mây một lần nữa thực hiện chức năng của mình là gợi ra buổi chiều trên sông nước mênh mông. Cảnh vật nên thơ hùng vĩ với từng lớp mây cao như núi bạc phía chân trời, với những cánh chim chiều muộn hối hả tìm về tổ ấm. Trong cái nghiêng của cánh chim tưởng như gánh cả bầu trời, bóng chiều buông dần. Câu thơ vừa quen vừa mới, bộc lộ nét tinh tế riêng của nhà thơ. Bóng nghiêng của chú chim nhỏ cũng một lần nữa nhấn mạnh sự tương phản giữa những thực thể nhỏ bé hiện hữu trong bức tranh với không gian bao la của vũ trụ. Có lẽ sự tương phản ấy đã khơi dậy trong lòng mỗi người đọc một cảm giác cô tịch, một bóng hình gợi lên trong mỗi chúng ta một nỗi buồn sâu kín nào đó.
Hai câu sau mượn ý thơ của Thôi Hiệu, một nhà thơ nổi tiếng đời Đường trong bài Hoàng Hạc Lâu:
Nhật hương quýt xứ thị mộ Yên ba chán dùng thượng căng (Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng buồn ai)
Nếu như Thôi Hiệu cần một màu khói để gợi nỗi nhớ nhà, nếu màu khói trong thơ xưa gợi không khí sum họp, làm người ta khao khát tình quê thì nay trong thơ Huy Cận không cần màu khói ấy. , nỗi nhớ nhà, tình yêu. quê hương vẫn hiên ngang sục sôi. Có lẽ tình yêu quê hương thầm kín nhưng nồng nàn ẩn chứa trong trái tim đa sầu đa cảm của nhà thơ ấy đã làm nên một bài thơ hay và xúc động như vậy. Đoạn thơ khép lại bằng nỗi nhớ, bằng tình quê sâu nặng ấy và giá trị của tác phẩm chắc là ở đây?
Tràng Giang là một bài thơ đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào thơ mới nói chung. Nó không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ Huy Cận mà dường như nó còn nói lên tâm tư của một lớp người thời bấy giờ. Những con người nhỏ bé, bế tắc mất phương hướng trước dòng sông cuộc đời nhưng tâm hồn chưa bao giờ lìa bỏ quê hương, tình yêu đất nước vẫn chảy trong họ một dòng sông mạnh mẽ, bền vững để nâng đỡ. với những con sóng của dòng sông cuộc đời. Cái hay của “Tràng Giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và chất hiện đại để tạo nên một thi phẩm độc đáo.
Phân Tích Tràng Giang – Văn Mẫu 2
Trong đời người, có những lúc bước chân lang bạt đưa ta đến sông, hồ, bãi, cồn, núi cao, đèo dốc, đến những khoảng trời nước bao la. Tức là chúng ta sẽ phải đối mặt với sự vô tận của không gian, điểm bắt đầu và điểm kết thúc của thời gian. Khi ấy, ngay cả những người vô tâm nhất cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn. Bởi hơn bao giờ hết người ta thấy rõ rằng con người thật nhỏ bé, kiếp người chỉ là thoáng chốc. Đời người thật phù du! Tôi chợt thấy mình như đang lang thang vô định giữa trời đất bao la, bồng bềnh trong sự xa vắng và rợn ngợp của thời gian. Tôi chợt thấy chơi vơi giữa cõi đời này!… thế là tôi được đọc thơ Huy Cận. Vì đó là thế giới Lửa Thiêng, thế giới Tràng Giang. Nhà thơ đã mang đến cho ta nỗi niềm vốn có của con người.
Ngày xưa, để bênh vực bài Tràng giang (cũng là của Thơ mới!) người ta phải viện đến trí nhớ của một anh bộ đội nào đó nói rằng cách mạng rất thích hai câu đầu. của bài thơ Tràng Giang, nên bài thơ này hoàn toàn lành mạnh, mọi nỗi buồn ở đó đều trong sáng, không có hại! Rồi đến cả Xuân Diệu cũng phải lập hàng rào bao quanh để bênh vực cho tình yêu thiên nhiên của bài thơ. Không, tình yêu thiên nhiên tự nó là một giá trị, bình đẳng với những tình yêu khác. Yêu thiên nhiên là tình cảm của con người. Bản thân nó không cần bảo vệ!
“Trường Giang” không nhất thiết phải là sông Hồng, sông Cửu Long mà có thể là Hoàng Hà, Hằng Hà, Vonga, Dương Tử… cũng được. Tràng Giang là một tạo vật tự nhiên, nó có thể được gợi ra, gợi lên từ sông Hồng, từ một vị trí xác định là bến Chèm. Nhưng khi đã kết thành hình tượng “Tràng Giang” thì nó đã khước từ mọi địa danh cụ thể để trở thành một tạo vật tự nhiên phổ quát. Tràng giang Trước là thơ sáng tạo, sau là thơ đất nước. Bởi vậy, tình yêu của nhà thơ trong đó trước hết là tình yêu sáng tạo! Điều đó không đủ để làm nên một bài thơ hay!
Cảm hứng của bài thơ quả là cảm hứng không gian. Không gian được trải rộng từ dòng sông đến đỉnh trời, không gian được mở ra từ chiều sâu của vũ trụ vào chiều sâu của tâm hồn con người. Đó là một thế giới vừa được nhìn bằng chiêm nghiệm cổ điển, vừa được cảm nhận bằng tâm trạng cô đơn của cái “tôi” hiện đại, rất đặc trưng cho Thơ mới. Có lẽ vì thế mà Tràng Giang hiện lên như một bức tranh tạo vật vĩ đại, trường tồn, vừa hoang sơ vừa cổ kính, trong đó nhà thơ hiện lên như một lữ khách cô đơn, lạc lõng?
Trước hết, không gian Tràng Giang thuộc về sự bao la vô biên.
Ngay nhan đề bài thơ cũng như mở cửa vào cõi vô biên. Tràng Giang gợi hình ảnh một dòng sông bao la chảy giữa đất trời. Và câu từ “Trời rộng sông dài” tuy còn nằm ngoài văn bản nhưng nó như một bức màn trung gian với vô cùng mà người đọc cần vén lên; hay như một hành lang rộng mở đến vô biên mà người đọc cần bước vào.
Trong mọi trường hợp, những hình ảnh sống động của một thế giới hoàn toàn có thể cảm nhận được bằng thị giác thực sự mở ra với những câu mở đầu:
“Sóng lăn tăn buồn thương
Thuyền xuôi mái song”
Có lẽ thơ ca về dòng sông đã vào những câu như thế này để chỉ vẻ đẹp của nó. Câu đầu tả sóng, câu thứ hai tả dòng trôi, dòng chảy trên mặt sông. Nếu như câu đầu gợi những con sóng trải dài, lan rộng, chồng lên nhau, đuổi nhau đến tận chân trời thì câu thứ hai lại miêu tả những dòng nước song song, lững lờ mãi về cuối trời. Không gian mở ra cả về chiều rộng và chiều dài. Đúng là nó phảng phất âm hưởng của hai câu thơ cũng tả dòng sông trong bài. bài cao Danh nhân Đỗ Phủ:
“Vô biên, thiền định và hủy diệt”
Khao khát vô tận về tương lai.”
(Hàng ngàn cây ngút ngàn, lá rơi xào xạc.)
Dòng sông đang chảy, nước đang lăn.)
Cũng là đối xứng, nhưng Đỗ Phủ viết theo lối tương phản, còn Huy Cận – có cải biên, chỉ dùng theo lối đối xứng. Cũng sử dụng tiên đề để mô tả, trong khi tác giả bài cao đặt ở giữa câu thì tác giả Tràng giang chuyển xuống cuối câu. Như vậy, hai từ ấy có nguồn gốc trùng điệp và song song, tạo nên sự dư ba. Tức là bài thơ đã dừng, nhưng ý và âm còn vang như dội vào vô biên. Dòng sông lớn mang trong lòng mỗi người nỗi buồn mênh mang!
Xuyên suốt bài thơ, Huy Cận cũng đã dày công miêu tả cái mênh mông vô biên với biết bao chi tiết nghệ thuật. Cả hai đều sử dụng cái tuyệt vời để gợi ý về sự bao la và sử dụng cái hữu hạn để gợi ý về vô hạn. Là trăm sông, là cồn, là bờ xanh, là bãi vàng, là tầng lớp mây cao đùn núi bạc, là cành củi khô, là bóng chim nhỏ… Nhưng có lẽ bức tranh Tràng Giang vô biên đã lọt vào tầm mắt. Nó kết thúc bằng hai câu sau:
“Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm
Song Long trời rộng bến vắng”.
Câu trên là sự mở ra vô biên về chiều cao. Câu dưới đây là vô biên cả về chiều rộng và chiều dài. Có một không gian mở rộng trong câu: “Nắng xuống, trời lên”. Hai động từ ngược chiều lên và xuống tạo cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Mặt trời lặn ở đâu, trời mọc ở đó. Và nó được hoàn thành bằng cụm từ “sâu chót vót”. Có một điều như vậy là phi logic! Có lẽ không chịu nổi sự phi lý mà nhiều người đã cố tình in và viết là “buồn vô cùng” để dễ hình dung. Tiếc thay, chính “sâu” lại là sự ngây ngất của hồn thơ.
Đây không phải là sự xa lánh ngôn ngữ. Nếu có thì trước hết là sự khác lạ trong cách nhìn, trong cảm nhận, đôi mắt của tác giả không dùng trên đỉnh trời thông thường để cảm nhận độ cao mà như xuyên thấu tận đáy vũ trụ để cảm nhận. . về chiều sâu. Tuy nhiên, đây vẫn là chiều sâu của một cái nhìn hướng lên. Vì vậy, nó là “độ sâu cuối cùng”.
Cao chót vót vốn là từ dành riêng cho chiều cao bỗng phát huy tác dụng bất ngờ. Nó cũng gợi ý một giai điệu chưa hoàn thành. Dường như cái nhìn của nhà thơ hướng tới đâu, bầu trời sẽ thăm thẳm tới đó, cao vời vợi hơn bao giờ hết. Vừa nối vừa đối đáp với câu trên, câu thứ hai mở đầu bằng một cái tít lớn. Bài thơ viết giản dị, không có từ ngữ gì lạ, dường như chỉ là sự sắp đặt các chiều của dòng sông, vậy thôi! Nhưng hãy xem chuyển động. Trạng thái tĩnh, tính từ có vẻ “khuấy” yêu cầu tiết. Trong cái áp bức của cái nhìn xa xăm, có cảm giác “sông dài” (ra) trời rộng (phụ) bến (đi) hiu quạnh!
Thật lạ, không có từ nào lạ, nhưng vẫn mới. Khi đó chúng ta mới biết rằng cái mới đích thực trong nghệ thuật chỉ có thể đến từ cái mới của cảm xúc.
Là người thuộc tầng lớp Tây học nhưng tâm hồn tác giả Lửa thần lại thấm nhuần Đường thi nên gian Tràng giang cứ lang thang thơ Đường. Thơ cổ Trung Quốc rất tinh tế trong việc mô tả trạng thái tĩnh lặng của thế giới. Có lẽ vì triết học ở đây đã quan niệm tĩnh là cội nguồn của vận động, tĩnh là cội nguồn của thế giới chăng? Cùng với nó, sự tĩnh lặng và cô tịch cũng trở thành một tiêu chuẩn thẩm mỹ phổ biến về cái đẹp của tự nhiên và nghệ thuật của tự nhiên.
Tái tạo sự tĩnh lặng bao la trong nghệ thuật được coi là tái tạo không gian—một không gian tràn ngập âm nhạc chứ không phải không gian trống rỗng. Huy Cận cũng tái hiện như vậy, nhưng nhà thơ muốn đi xa hơn. Sự thanh thản của thơ cổ được cảm nhận bằng sự thanh thản tự nhiên. Và sự trống rỗng của Tràng giang Đó là một thế giới cô đơn, gần như hoàn toàn bị bỏ hoang. Đối diện với khoảng không vô tận, trống rỗng, cái tôi ấy đi tìm sự đồng cảm của đồng loại. Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng.
Thực ra, con người thấp thoáng trong hình bóng con thuyền ở đầu bài thơ. Một con thuyền “xuống mui”, trôi một cách thụ động trên dòng nước chảy xiết. Và nó chỉ xuất hiện trong chốc lát, rồi nép mình bên một bãi biển và biến mất bên dòng sông, trả lại không gian cho muôn ngàn sông nước ngự trị:
“Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường”.
Khát khao âm thanh của kiếp người, nhà thơ lắng nghe, không dám mơ đến âm thanh vui tươi náo nhiệt, chỉ muốn gặp một âm thanh đạm bạc nhất, tẻ nhạt nhất của kiếp người, nhưng không có:
“Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều”
Từ “where” đứng đầu câu có thể hiểu là từ chỉ địa điểm với nghĩa là “ở đâu đó”. Nó cũng có thể được hiểu là một từ phủ định với nghĩa là “hư không”. Dù thế nào thì nó cũng có ý nói đến sự sống tan rã, một bên là vắng mặt, một bên là vắng bóng. Và sau đó không có phương tiện liên lạc nào cho thấy sự hiện diện của con người:
“Mênh mông không một con đò qua.
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật nào.
Và sự phủ định cuối cùng: “Không khói hoàng hôn…”. Nên ở đây không còn sự cô tịch của “Đêm êm trăng nghiêng chén/ Ngày vắng ngắm cỏ cây hoa lá” (Nguyễn Trãi), “Lác sông mấy mái nhà” (Bà Huyện Thanh Quan) ) hoặc “Hẻm”. Tre trúc gió vắng khách” (Nguyễn Khuyến). Tràng Giang hiện ra như một thế giới hoang sơ. Có lẽ nó đã như vậy kể từ thuở sơ khai của thế giới. Nhà thơ như một kẻ lang thang lạc giữa hoang đảo. Hầu như không, hoàn toàn một mình.
Và nỗi nhớ nhà trỗi dậy như một tiếng gọi tự nhiên. Đứng trước cảnh này, hơn ngàn năm trước Thôi Hiệu cũng xúc động nhớ quê:
“Nhật hương quan xứ thị mộ?
Yên ba chán dùng thượng căng”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng buồn ai?)
Có lẽ đó là nỗi nhớ da diết buồn man mác chợt trỗi dậy trong tâm hồn những người xa quê. Và nó cần sóng khói để bào chữa. Ký ức của tác giả Tràng Giang dường như có sẵn, vì vậy tôi không thể tìm thấy bất kỳ khói như một cái cớ. Như thể, nỗi nhớ nhà là lối thoát duy nhất, thoát khỏi nỗi cô đơn cố hữu:
“Lòng quê đầy nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Dòng sông mênh mông chảy giữa đất trời đến đây như chợt vang lên cùng tiếng sóng khác: tiếng sóng quê ơi! Hay lòng quê cũng đang xôn xao trở thành dòng suối tâm hồn nhập vào dòng sông đất trời?
Đứng trước những dòng sông lớn, ta có cảm giác như đang đối diện với sự vĩnh cửu. Nghìn năm rồi không có tôi, nó vẫn chảy như thế này. Nghìn năm sau, khi tôi đã biến mất khỏi trái đất này, nó vẫn chảy như thế. Tràng Giang vẫn thản nhiên dửng dưng trước sự hiện diện của con người. Sự im lặng của dòng sông là vĩnh cửu. Đứng bên dòng sông lớn, lắng nghe nhịp thủy triều miên man bất tận. Đó là nhịp điệu của sự vĩnh cửu, nhịp điệu của vũ trụ. Và, tôi muốn nói về một tính năng tinh tế hơn của Tràng Giang nói riêng và Lửa thần Nhìn chung: Huy Cận dường như đã nghe thấy và chuyển cái nhịp điệu bất tận ấy vào âm hưởng của bài thơ.
Huy Cận đã thể hiện điều đó bằng sức vang lạ lùng của ngôn từ. Điều đó chủ yếu nhờ vào độ vang của các yếu tố lặp lại và chồng lên nhau. Hãy chú ý đến những lời nói tục tĩu, đặc biệt là những từ nguyên thể. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ có một mật độ từ ngữ dày đặc như vậy: điệp khúc, song hành, tầng tầng lớp lớp, nhấp nhô… ẩn hiện trong toàn bài. Chúng không chỉ gợi hình khối đường nét, mà còn gợi nhịp điệu vận động – chuyển động không ngừng. Rồi các cặp câu đối như lặp lại, nối tiếp nhau, đuổi nhau không ngừng:
“Sóng lăn tăn buồn thương
Thuyền xuôi mái song”
“Mặt trời lặn / trời lên / trời thăm thẳm
Song Long trời rộng bến vắng”
Đặc biệt, những câu văn vừa ngắt, vừa nối liền nhau như một chuỗi dài cũng đã góp phần tạo nên nhịp điệu miên man, miên man, bất tận.
Rồi lác đác chỗ này chỗ kia, rồi “hàng nối hàng”, “Lặng lẽ từ bờ xanh bãi vàng”… Hàng nối tiếp hàng, bờ này sang bờ kia, tất cả các đối đáp phụ trợ cho nhau đều song hành, điệp điệp. . Tất cả những yếu tố ấy như những xà nhà khác nhau, liên kết với nhau tạo thành một âm thanh ngầm chảy đây đó trong bài thơ: âm thanh chảy không ngừng. Đó có phải là nhịp điệu im lặng của hư vô không thể cưỡng lại của thế giới này?
Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang, có thể nói đây là một âm thanh vừa ở trong vừa ở ngoài ngôn ngữ, nó vừa có ý thức vừa vô thức của nhà thơ. Tôi coi đây là một trong những phần kỳ diệu nhất của bài thơ này. Nó khiến ta có một cảm giác rất rõ ràng: mặt chữ của cả bài thơ cũng như đang xuôi dòng. Dòng sông không chỉ chảy trong không gian, mà còn chảy trong thời gian… Từ thuở xa xưa, dòng sông đã chảy qua bao thời đại để về đây! Phải chăng đây là chiều thứ tư mơ hồ, hư ảo của không gian Tràng Giang?
Tôi đã đọc đi đọc lại bài thơ nhiều lần mà không sao xóa bỏ được trong lòng cảm giác bơ vơ này: Tôi là cành củi khô trôi trên dòng nước, hay tôi là cánh chim lạc lối dưới tầng mây cao. bạc đó!… Đó có phải là cảm giác của một đứa trẻ? Mà cũng có vẻ là của một người già? Vì Tràng Giang là dòng sông mà còn là dòng đời?
Tràng Giang Tích – Model 3
Nhắc đến Huy Cận, người ta nghĩ ngay đến một “hồn thơ ảo” (Hoài Thanh). Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ông đã đóng góp cho thơ đương đại một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn trước những dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và chất hiện đại, ông đã gửi gắm cảm xúc ấy vào nhiều bài thơ, trong đó có Tràng Giang. Bài thơ in trong tập Lửa thiêng (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.
Vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, có một sinh viên trường Cao đẳng Nông nghiệp, đạp xe dọc bờ đê sông Hồng, đến Bãi Chèm – phía Nam sông, trước sóng biển mênh mông, không thể kìm lòng. Cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà, ông đã viết bài thơ Tràng Giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời của bài thơ như vậy. Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng sau đổi thành Tràng Giang. Tiêu đề này truyền đạt nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng Giang” là từ Hán Việt cổ trang trọng, chỉ sông dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” (cùng nghĩa) để thay thế, bởi vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm vang, vừa gợi cảm giác về một dòng sông không chỉ dài mà còn rộng. Thêm chú thích từ “Bằng Ta Đi Trời Nhớ Sông Dài” càng làm rõ sắc thái tình cảm chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi buồn của con người trước một không gian bao la, rộng lớn có thể bao quát cả vũ trụ.
Và quả thật, trước một dòng suối như thế, nhà thơ không giấu được nỗi buồn mà để nó lan tỏa khắp không gian, bao trùm cả vũ trụ.
Sóng lăn tăn gửi tin buồn Thuyền xuôi mái song Thuyền về lại buồn Củi cành khô nằm mấy đường.
Khổ thơ đầu mở ra một khung cảnh bao la, rộng lớn đối lập hoàn toàn với những sự vật nhỏ bé như con sóng, con thuyền, cành khô. Những điều ấy cũng gợi lên nỗi buồn mênh mông theo sóng. Qua những từ gợn sóng, buồn điệp điệp, nước song song, buồn trăm phương, lạc mấy dòng nỗi buồn trải dài, lan tỏa khắp sông dài biển rộng. Dẫu rằng ở đây vạn vật không có sự liên kết với nhau, nhất là thuyền và nước, hai thứ vốn dĩ không thể tách rời, nhưng thuyền đi về, nước lại khiến bao buồn đau tưởng chừng như chia cắt trăm ngả. Tuy nhiên, điểm nhấn rõ nét nhất của khổ thơ là hình ảnh củi và cành khô. Những thứ vốn đã vô hồn, trôi bồng bềnh trên sông đã vẽ nên nét hiện đại để khắc họa nỗi buồn. Và hơn nữa, nếu lạc mất vài dòng, không chỉ là nỗi buồn, nó còn tồn tại sự cô đơn. Phải chăng đó là hiện thân của một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, đầy bất trắc trong chính cuộc đời của tác giả?
Ở khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình xa hơn, cảnh trên sông hướng vào cồn nhỏ, bầu trời và cả dòng sông.
Bài hát nhỏ của gió cô đơn Còn đâu tiếng thôn đi chợ chiều? Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm Song Long trời rộng bến vắng
Nhưng dường như không gian không mấy thay đổi, ngay cả hai từ chênh vênh và quạnh hiu cũng lột tả được sự vắng lặng, vắng lặng, hiu quạnh. Đâu đó (hay hư không) có âm thanh của cuộc sống? Cho dù có, tiếng làng xa chợ chiều cũng không làm nơi đây thêm náo nhiệt, thậm chí còn làm trầm thêm sự tĩnh lặng. Thế là xung quanh chỉ có mặt trời trên trời, dòng sông trước mặt, vật xuống, vật lên, vật dài, vật rộng, những vật tưởng đã xa, nay lại càng xa. Lối sáng tạo từ chiều sâu đã giúp tác giả lột tả khoảng cách giữa bầu trời và dòng sông vừa có chiều cao vừa có chiều sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán đến mức tối đa trong toàn vũ trụ. Chỉ khi còn lại một mình ta mới biết nỗi buồn đã lan tỏa khắp mọi không gian và nỗi cô đơn ngày một lớn hơn. Lúc này nhà thơ không còn hướng ra sông như ở khổ thơ trên mà hoàn toàn choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ ấy.
Rồi đôi mắt nhà thơ tiếp tục tìm kiếm. Dường như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu đó chút ít của kiếp người.
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác? Mênh mông không một con đò qua Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng
Lần này lại xuất hiện hình ảnh bèo tấm quen thuộc. Trong thơ cổ nó là hiện thân của kiếp người lênh đênh, lênh đênh giữa cuộc đời. Nhưng chỉ là bèo thôi chứ không có bèo nối tiếp nhau như ở đây. Chà, không biết bao nhiêu hàng bèo như thế, đang lần lượt trôi dạt về đâu? Có nỗi buồn, bơ vơ, lạc lõng không của riêng một khúc củi khô mà của cả một thế hệ người không biết đi về đâu? Hình ảnh thơ thật giản dị nhưng gói gọn cảm xúc của biết bao con người lúc này. Vì vậy, nhìn xung quanh, nó thật mênh mông, và không có dấu hiệu của sự sống ở bất cứ đâu. Thông điệp tiêu cực khiến con người không còn bóng dáng của sự tồn tại ở đây. Không phà, không cầu, một chút tri kỷ cũng khó. Vì vậy, chỉ còn lại bản chất tiếp xúc với bản chất. Hai chữ lặng lẽ thoáng chút buồn vì nhìn dòng sông từ trên cao xuống thấp, xa gần mà chỉ còn lại bờ xanh, bãi vàng. Không gian vì thế tiếp tục tăng thêm sự rộng lớn của cái bát. Nỗi cô đơn, buồn tủi của con người chưa có dấu hiệu khô cạn, thu hẹp về một hướng nào.
Cả ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đượm hương vị cổ điển pha chút hiện đại độc đáo để khắc họa một không gian vô cùng vô tận. Tất cả chỉ để chất chứa một nỗi buồn, nỗi cô đơn vô bờ bến của lòng người. Bao nhiêu hy vọng dồn hết vào nỗi đau khổ cuối cùng, để bản ngã bớt đi phần nào những lo lắng chất chứa. Để có thể:
Tầng lớp mây cao đùn núi bạc Con chim nhỏ: bóng hoàng hôn Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh thiên nhiên lại thay đổi, nhưng lần này không phải là dòng sông mênh mông tĩnh lặng như những bức ảnh trên mà thay vào đó là sự nguy nga, tráng lệ nổi bật trên nền trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ kính quen thuộc như mây trời, chim muông, nhà thơ đã vẽ lên bầu trời ấy những đường nét, màu sắc sống động. Đó là từng lớp từng lớp mây bạc đùn lên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt, độ nghiêng của chim được coi là khoảnh khắc ghi lại chuyển động của hai vật. Không biết cánh chim bé nhỏ ấy đang khẽ nghiêng, là bóng chiều đổ xuống hay bóng chiều đổ nặng nề trên cánh chim khiến nó nghiêng ngả? Nhưng khoảnh khắc đồng hiện này đã tạo ra sự chuyển dịch rất nhanh cả về không gian và thời gian. Và một lần nữa lòng người không thể xua tan sự bủa vây của ngoại cảnh. Không gian có đổi thay, dù tráng lệ đến đâu lòng nhà thơ vẫn thấy trống vắng. Nhưng lần này nỗi cô đơn quay về quê hương. Có biết bao cảnh trên trời, dưới sông, tất cả đều có cảm xúc lẫn lộn. Từ ngữ sáng tạo này của nhà thơ đã khắc sâu hay rất chân thực một cảm giác bâng khuâng, đau đáu của “quê” khi đối đáp với cụm từ “nước lớn”. Bao nhiêu buồn tủi rồi tràn vào nỗi nhớ quê hương da diết. Nhưng lạ thay, ở ngay trên quê hương mà lòng vẫn nhớ quê hương da diết. Nhưng quê hương đã không còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ nhà thơ mới trước hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Nỗi niềm xa quê, “thiếu quê hương” trở thành một rung cảm sẵn có không cần sóng hoàng hôn như nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường để gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ. Không cần níu kéo một điều gì, nỗi nhớ ấy chan chứa, mãnh liệt, tự nó đã bộc lộ một tình yêu quê hương da diết, nặng trĩu.
Có hai ấn tượng đọng lại sau khi đọc bài thơ: không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, sự cô đơn vô tận của lòng người. Cả hai dường như có cùng một nỗi niềm nên bài thơ càng rộng, càng lớn, càng buồn, càng cô quạnh dường như chất chứa, tích tụ nỗi buồn ngàn năm. Nhưng trên hết, lối viết đặc trưng, nhuần nhuyễn giữa cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đẹp dù buồn. Nhưng người đọc vẫn thấy một tình yêu quê hương thầm kín xuất hiện ở Tràng Giang.
Phân Tích Tràng Giang – Mô Hình 4
Khác với hồn thơ sôi nổi, thiết tha gắn liền với công cuộc đổi mới sau Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận những năm trước cách mạng mang nỗi u uất, buồn bã đi trước thời đại. Chẳng trách mà “Tràng Giang” ra đời miêu tả nỗi cô đơn của con người trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nỗi buồn, sự xao xuyến trước không gian rộng lớn, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, tình yêu đất nước đang chìm trong tang tóc của nhà thơ.
Bài thơ được sáng tác năm 1939, in lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in trong tập Lửa thiêng – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào “Thơ mới” buổi đầu.
Ngay khi đọc nhan đề bài thơ “Tràng Giang” người ta có thể hình dung ra những tâm tư, suy nghĩ mà tác giả gửi gắm trong đó. Nhan đề gợi cảnh sông dài, rộng lớn vô biên. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài là những mảnh đời bấp bênh, lênh đênh, u uất. Câu nhan đề “Qua trời rộng nhớ sông dài” tiếp tục khẳng định nỗi sầu, không biết bày tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của sông nước.
Phân tích bài thơ Tràng Giang ở khổ thơ đầu đến với người đọc hình ảnh dòng sông buồn, chứa đựng những cảm xúc khó tả:
“Sóng lăn tăn buồn thương
Thuyền xuôi mái song
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường”.
Mới đọc khổ thơ đầu, người đọc đã thấy được không khí u uất, đượm buồn qua các từ láy “buồn bã”, “buồn bã”, “cành khô lạc lõng”. Câu đầu tả sóng, câu thứ hai tả dòng trôi, dòng chảy trên mặt sông. Nếu như câu đầu gợi lên những con sóng đang lan tỏa, lan xa, đuổi nhau đến tận chân trời thì câu thứ hai lại miêu tả những dòng nước song song, đuổi nhau đến cuối trời. Trong câu đầu tiên, “sóng gợn” là những con sóng nhỏ lăn tăn. Nhưng chỉ một gợn sóng đó Tràng giang là “tin nhắn buồn”. Từ láy hoàn toàn “điệp điệp” như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền “xuôi theo dòng nước song song” gợi cảm giác trơ trọi trên mặt nước miên man vô tận.
Hai câu thơ kết hợp với nhau làm cho không gian vừa mở ra theo chiều rộng, vừa kéo dài theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa cảnh chia ly qua câu thơ thứ ba. “Thuyền” và “nước” vốn dĩ là hai hình ảnh có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình, hai hình ảnh này không còn song hành với nhau nữa. “Trăm nỗi buồn”, nỗi buồn, sự sầu muộn cứ tăng lên từng ngày. Với câu thơ thứ tư, tác giả sử dụng phép đảo ngữ “củi trên cành khô” để nói về sự cô đơn, cằn cỗi của “củi”. Số từ láy “một mình”, trơ trọi cộng với tính từ “khô” – hết sức sống càng làm cho hình ảnh thêm khô héo.
Tác giả thật tài tình khi sử dụng nghệ thuật điệp từ “một” – “mấy” như để nhấn mạnh nỗi cô đơn của gánh củi trên sông. “Lạc mấy dòng” không chỉ nói lên nỗi cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, lênh đênh khi “lạc trôi” từ dòng sông này sang dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ ở phép song hành mà còn ở nhịp 1/3/3. Với sự ngắt nhịp ấy, “củi” tỏ ra “độc lập” và điều đó càng làm rõ thêm tình thế biệt lập của sự vật này. Có thể nói, hình ảnh “cành khô cành khô” đã phần nào nói lên tâm trạng của nhà thơ – một con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc đời bộn bề. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu, bức tranh thiên nhiên buồn, u uất đã hiện ra rõ nét. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và hiện đại cũng giúp người đọc hiểu rõ hơn về tâm trạng của nhà thơ.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục là một khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.
“Thơ nhỏ lẻ loi trong gió
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm
Song Long trời rộng bến vắng”.
Huy Cận đã khéo léo sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để diễn tả cảnh hoang tàn, vắng vẻ hai bên bờ sông: “Liêu vắng” – thưa thớt, ít ỏi, “vô chủ” – vắng lặng, ít ỏi. Mọi người. Trên “cồn nhỏ” gió phảng phất không khí buồn bã, đìu hiu của một nơi ít người, thiếu sức sống. Buồn đến nỗi không nghe tiếng chợ chiều ồn ã. “Đâu” diễn tả một cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bấu víu vào. Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ, một bức tranh làng quê ảm đạm, thiếu sức sống đã hiện ra. Đến hai câu thơ tiếp theo, tác giả như mở rộng tầm nhìn qua biện pháp đối đáp “nắng lên” – “trời lên” đã làm cho không gian mở rộng theo chiều cao, ở giữa có một khoảng mở rộng. .
Hai động từ đối lập “lên” và “xuống” gợi cảm giác chuyển động. Mặt trời lặn, bầu trời như được kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là “towering depth” – không gian mở rộng theo chiều sâu. “Towering” là một từ độc quyền khi nói đến chiều cao. Nói đến thăm thẳm, người ta thường dùng “sâu hun hút” hay “sâu thăm thẳm”,… Chính cách dùng từ độc đáo của Huy Cận đã gợi ra một không gian vũ trụ thăm thẳm, đó cũng là thời gian của nỗi buồn. , nỗi cô đơn của nhà thơ trỗi dậy, trở nên vô hạn. Một góc nhìn thú vị, mới lạ.
Câu thơ cuối nhà thơ dùng một không gian rộng lớn để nói về nỗi cô đơn, lẻ loi. “Bến lẻ loi” – buồn bã, thưa thớt hiu quạnh giữa không gian bao la của sông nước và đất trời. Bức tranh toàn cảnh thứ hai mang một màu hiu quạnh, vắng vẻ, đối lập với hình ảnh khung cảnh thưa thớt, không gian bao la, càng nhấn mạnh nỗi u uất cổ kính.
“Bạn trôi dạt từ hàng nào đến hàng nào?
Mênh mông không một con đò qua
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”.
Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài thơ Tràng Giang, hình ảnh ở khổ thơ thứ ba bước đầu chuyển động với động từ “trôi”, nhưng động từ đi cùng với động từ này lại là “bèo bọt”. “Bèo” vốn dĩ là hình ảnh tượng trưng cho sự bấp bênh, lênh đênh, không có nơi ở ổn định. Hơn nữa, cụm từ “hàng nối tiếp hàng” diễn tả sự mông lung, bất định khi hết hàng này đến hàng khác “nối gót” nhau. Không gian đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong có thể nhìn thấy con phà để cảm nhận cuộc sống. Nhưng đáp lại sự mong đợi đó là “không chuyến đò ngang”.
Ở khổ thơ này, nhà thơ dùng nhiều từ phủ định: “đò không” và giờ đến lần sau là “không cầu”. Hình ảnh cây cầu gợi vẻ thôn quê, mang lại cảm giác “thân thiết”. Nhưng vì vắng hình ảnh này nên cảm giác xa lạ, cô đơn được cảm nhận rõ ràng. Ở câu thơ cuối, tác giả sử dụng nhiều màu sắc để làm nổi bật bức tranh. “Bờ xanh gặp bãi vàng” – bức tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ “lặng lẽ” lại làm chìm màu sắc này. Lúc này hai hình ảnh này không còn được màu sắc tươi tắn như ban đầu. Từ này cũng làm cho không khí ngột ngạt “lây lan” từ đối tượng này sang đối tượng khác. Vạn vật chìm trong cô tịch.
Nếu ba khổ thơ đầu là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ cuối là tâm tư, nỗi lòng của nhà thơ:
“Tầng mây cao đùn núi bạc
Cánh chim nhỏ trong bóng chiều
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Xuyên suốt bài thơ, tác giả liên tục sử dụng biện pháp nghệ thuật sử dụng từ láy. “Layer” – xếp chồng lên nhau, “extrusion” là ấn vào để làm cho vật gì đó thấp hơn. Như vậy, với câu đầu của khổ thơ thứ tư, tác giả đã vẽ nên một bức tranh quê hương rộng lớn với nhiều tầng mây bao phủ núi bạc. Hình ảnh “chim cụt cánh bé nhỏ” gợi cảm giác bé nhỏ, bơ vơ. “Nghiêng” – không vững. Hình ảnh này đối lập với “bóng chiều” sau này.
Trên nền bóng tối rộng lớn là hình ảnh chú chim nhỏ đang lo lắng, vẫn còn mơ hồ thấy đường đi tìm nơi trú ẩn của mình. Hình ảnh cánh chim này từng xuất hiện trong “Nữ hoàng chim Quý Lâm” Mộ – Hồ Chí Minh), tạm dịch “Chim mỏi về rừng tìm chỗ ngủ”. Đến câu thơ thứ ba, tác giả bộc lộ nỗi nhớ quê da diết. “Nực cười” là khơi gợi, khơi dậy, có một cảm giác không nói nên lời. Mỗi lần nhìn thấy “con nước” là tình yêu quê hương của tác giả lại trỗi dậy. Tuy nhiên, nét đặc sắc nằm ở câu thơ cuối: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Hơn ngàn năm trước, Thôi Hiệu cũng xúc động nhớ quê mà thốt lên:
“Nhật hương quan xứ thị mộ
Yên ba chán dùng thượng căng.”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng buồn ai?)
Nỗi niềm của hai nhà thơ có những điểm khác nhau. Ở Thôi Hiệu vì thấy khói sóng trên sông mà buồn nhớ quê, còn ở Huy Cận, không thấy khói sóng nhưng nỗi nhớ nhà vẫn trào dâng. Nếu Thôi Hiếu nhớ nhà vì xa quê, bôn ba thì nỗi nhớ của Huy Cận đến từ một người đứng trên chính mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ cũng xuất phát từ sự bơ vơ, chán chường của chính nhà thơ trước thời đại.
Nét nghệ thuật trong “ Tràng Giang “Trước hết phải nói đến sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển (thơ Đường Thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ, tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như Tràng Giang, Bến vắng,… cùng với đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi nhỏ bé trước thiên nhiên bao la thấm đượm yếu tố Đường Thi, yếu tố thơ mới được thể hiện qua cái tôi cảm xúc, những hình ảnh sinh động, giàu sức gợi bên cạnh đó là cách sử dụng từ láy, phép đối. cũng góp phần làm rõ sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la.
Sau khi phân tích bài thơ Tràng Giang , ta thấy Huy Cận không chỉ mang đến một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bao la mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh nỗi cô đơn của “cái tôi” trước ngân hà bao la. Sự tương phản này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, lênh đênh của kiếp người. Đồng thời, tác giả bày tỏ nỗi nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước.
Phân Tích Tràng Giang – Văn Mẫu 5
Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ của vạn lí sầu. Trước cách mạng, hồn thơ ông mang nỗi sầu thời đại. Tràng Giang là bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn vô tận của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Đằng sau nỗi buồn ấy là một tâm sự thầm kín và lòng yêu nước.
Nhan đề bài thơ gồm hai âm “ang”, đây là một âm mở, gợi sự bao la, rộng lớn. Không gian sông hiện ra không chỉ là một dòng sông bình thường mà nó còn là một dòng sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không những thế, cách dùng từ Hán Việt còn làm cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, khái quát.
Không phải tác phẩm nào cũng có nhan đề, khi xuất hiện nó thường là một câu gợi ý bao hàm toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng Giang là lời tựa do chính Huy Cận sáng tác:
Nhớ trời rộng nhớ sông dài
Câu thơ tự đề gợi không gian vũ trụ rộng lớn, bao la mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy, con người cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, đây cũng là nỗi niềm của bao thế hệ thi nhân xưa. Câu thơ đầu gợi cảm xúc chung của bài thơ.
Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ đầy xót xa:
Sóng lăn tăn gửi tin buồn Thuyền xuôi mái song Thuyền về lại buồn Củi cành khô nằm mấy dòng
Sóng lăn tăn theo chiều gió thổi, không gian hoàn toàn tĩnh lặng. Nhưng ở đây không chỉ thiên nhiên ẩn hiện mà tâm trạng con người cũng “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy xếp chồng lên nhau, tuy nhẹ nhàng nhưng lại thấm và lan tỏa trong lòng người. Nổi bật trong không gian ấy là hình ảnh con thuyền trên mái lênh đênh, trôi dạt. Giữa dòng sông, con đò trở nên nhỏ bé, lẻ loi như hình ảnh con người. Từ “dưới mái nhà” thể hiện trạng thái buông xuôi, mặc cho nước chảy xiết. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của người dân Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Con thuyền cứ trôi, cứ về, để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hữu hình trong hiện thực là những cành củi khô lẻ loi, trơ trọi. Đảo ngữ “củi” được đảo ở đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không những thế nó còn chỉ cảnh củi khô vô hồn trôi giạt giữa cuộc đời vô định. Hình ảnh “củi khô” là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa cuộc đời mênh mông. Đồng thời, nó cũng là hình ảnh ẩn dụ về cái tôi lạc lõng, bơ vơ trong Thơ Mới.
Huy Cận đã dời điểm nhìn của mình lại gần những bãi biển, cồn cát ngay trước mắt. “Thơ thẩn nhỏ lẻ loi” là một hình ảnh rất thực giữa sông Hồng, kết hợp với hai từ láy “thong thả” và “thơ thẩn” gợi lên sự thưa vắng, vắng vẻ, hiu quạnh. Trong không gian ấy, tác giả cố tìm hơi ấm của cuộc sống, tiếng chợ búa xa vắng, nhưng “tìm đâu” được, không gian là sự tĩnh lặng tuyệt đối. Nỗi buồn càng được tô đậm khi không gian được mở rộng ra vô cùng, nắng chiều xuống, sông dài – trời rộng, kết hợp với điệp từ “thót thẳm” đã mở rộng không gian ra cả ba phía: rộng, cao. , sâu. Diễn tả nỗi cô đơn, nhỏ bé cùng cực của con người trước không gian.
Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, hướng về vô cực và chỉ thu lại:
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác? Mênh mông không một con đò qua Không cần gợi lên bất kỳ sự thân mật nào Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Những cánh trôi lững lờ trôi nối đuôi nhau, dòng chảy không mục đích, không phương hướng, cũng giống như kiếp người nhỏ bé, cô đơn lúc bấy giờ. Không gian sông nước bao la không có một chuyến đò qua sông. Con đò ấy không chỉ là phương tiện đưa đón con người mà nó còn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định tuyệt đối: không một, không hỏi, không một chút tình đời, tình người vẫn hiện hữu nơi đây.
Khổ thơ cuối vẽ nên bức tranh không gian nhiều tầng lớp, anh ngước nhìn: “Mây cao tầng cao đùn núi bạc/ Con chim tung cánh nhỏ, bóng hoàng hôn”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời càng trở nên hùng vĩ và tráng lệ. Động từ “đùn” cho thấy mây cuộn vào, dựng lên những dãy núi kỳ vĩ. Và giữa bầu trời là một chú chim nhỏ lẻ loi, cảm giác như bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên hiu quạnh, vắng lặng, nỗi nhớ quê hương bỗng da diết, da diết:
Lòng quê chan chứa nước Không khói hoàng hôn và nỗi nhớ nhà.
Đoạn thơ làm ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ quan viên xứ thành/Yên ba giang thượng túc sầu”. Cũng là một nỗi buồn, một nỗi nhớ quê nhưng Huy Cận lại có một cách thể hiện mới, lạ. Lòng quê “xốn xang” tức là cứ tăng lên, cứ mạnh dần lên, dường như sóng lòng đang lan theo sóng biển. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là một biểu hiện thầm kín của lòng yêu nước.
Công trình là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn và cô quạnh. Nó cũng cho ta thấy một nỗi cô đơn lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cũng thể hiện tấm lòng yêu nước kín đáo nhưng vô cùng sâu sắc.
Phân Tích Tràng Giang – Văn Mẫu 6
Ai đi xa cũng mang trong mình một chút hình bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng vô tận, thôi thúc các nhà thơ sáng tác. Một dòng sông “nước trong gương soi tóc tre” trong thơ Tế Hanh, một dòng sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ… Và chỉ khi đến với ” Tràng giang ’ của Huy Cận, ta thấy được tất cả những gì đẹp nhất, thơ mộng nhất nhưng cũng chan chứa tình quê trong cảm nhận của tác giả.
Mang trong mình cả tài, tâm và tầm, Huy Cận được biết đến là một nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn. Dù am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại nhưng hồn thơ của ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Nguồn thơ truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho thơ – khi đạt đến độ chín – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa giản dị, vừa chân chất, vừa hàm súc; sắc thái biểu cảm được phát huy rõ nét. Chất lượng của suy nghĩ là bạc trong quatrains.
Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh, nhưng sâu sắc, giàu sức gợi; như len nhẹ, như thấm sâu vào tâm hồn, trí óc người đọc. Tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản lược theo lối cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Vì vậy, có thể nói ấn tượng không gian có được – trước hết – là nhờ hương vị của Đường Thì. Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận xét: “Thơ về đất nước, thiên nhiên, quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát lên hương thơm sâu thẳm và đẹp đẽ nhất của tâm hồn mình. Và ” Tràng Giang ” đã chứng minh điều đó một cách sâu sắc.
“Tràng Giang” là một bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả, vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh Nông, Huy Cận đã đứng trên bờ. Về phía nam bến Chèm, nhìn dòng sông Hồng mênh mông, lòng dạt dào cảm xúc, đã viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về dòng sông và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh: “Sông dài trời rộng bến vắng”.
Có thể nói, nhan đề một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc lần theo khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “ Tràng Giang ” còn những tâm tư, những nỗi niềm thầm kín đều được gửi gắm trong nhan đề vỏn vẹn hai chữ “Tràng Giang”.
“Trường Giang” hay “Trường Giang” là một từ Hán Việt chỉ sông dài. Nhưng tác giả lấy tên “Tràng Giang” chứ không phải “Trường Giang”. Vì vốn dĩ “Trường Giang” chỉ có nghĩa là con sông dài đơn sơ thế thôi; Nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói đến sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, tình cảm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài như cảm xúc của Huy Cận không bao giờ cạn khi đứng trước cảnh sông nước bao la, mênh mông này.
Bước vào thế giới của Tràng giang , ta như lạc vào một dòng sông dài, rộng và hấp dẫn:
Sóng lăn tăn gửi tin buồn
Thuyền xuôi mái song
Thuyền về, nước lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường.
Câu thơ đầu mở đầu bằng tiếng sóng. Không ồn ào, mạnh mẽ nhưng “sóng gợn”. Động từ “gợn sóng” diễn tả cả tư thế và tâm trạng. Bởi vì, “gợn sóng” trước hết chỉ sự chuyển động cực nhỏ, chậm của sóng. Tuy là động từ nhưng “gợn” thực sự gợi lên cái trống vắng lặng lẽ, vắng lặng của thiên nhiên sông nước. Nghệ thuật động và tả tĩnh của nhà thơ thật tài tình. Chi tiết bộc lộ hoàn cảnh thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm sự của một người mang nặng, nhưng cũng buồn.
Sóng không chỉ là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nhẹ nhàng lăn tăn, thấm cái “buồn điệp điệp” phát ra từ cảnh vật và dội vào lòng thi nhân. Từ “điệp điệp” không chỉ miêu tả những đợt sóng lăn tăn liên hồi của dòng sông mà còn là dòng sông của tâm trạng thi nhân, những con sóng của lòng cuộn vào nhau. Đặc biệt hơn, ngay ở đầu câu, tác giả đã nhắc lại nhan đề bài thơ không phải không có mục đích. “Tràng Giang” là dòng sông vừa dài vừa rộng, gợi một không gian bao la, choáng ngợp. Giữa cái nền ấy là một con người nhỏ bé, cô đơn đang gửi đôi mắt buồn theo sóng biển về phía chân trời.
Điều này làm sâu thẳm trái tim Huy Cận, một nhà thơ sẵn sàng buồn mọi lúc, mọi nơi. Nỗi buồn của người lữ khách dừng chân ở quán bên đèo cao, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi chiều xuống, khi chiều lên, buồn cả khi không còn thấy bóng dáng dấu chân trên đường.
Nếu như những câu thơ đầu bâng khuâng thì những dòng tiếp theo đã thấp thoáng hình ảnh con thuyền. “Con thuyền xuôi theo dòng nước song song” hay còn là con thuyền trôi không mục đích, trôi song song với dòng nước, để sóng cuốn đi. Hình ảnh ấy gợi cho ta một tâm thế buông xuôi, buông xuôi theo dòng đời, dòng đời của nhà thơ. Cùng với “buồn điệp điệp” trên, câu thơ làm sáng lên ý nghĩa sâu xa này.
Có thể nói, câu thơ thứ ba là một sự sáng tạo tài tình của tác giả. Lẽ thường, nước đẩy, thuyền trôi. Con thuyền trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không bao giờ tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước về”. Hai lập trường đối lập nhau gợi sự phi lý về mặt logic, nhưng thực ra xét về chiều sâu, bề sâu, bề sâu, ta càng hiểu rõ hơn nỗi lòng của người lữ khách sông nước.
Phải chăng đó là cảm giác biệt ly trong cảm xúc của Huy Cận khi đứng trước cảnh sông dài trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh nhìn ra xa thấy “Gió theo gió, mây theo mây”. Đó là nỗi buồn ám ảnh trong phức cảm chia ly. Vì thế, Huy Cận “buồn trăm lối”. Một nỗi buồn lớn mà không gì có thể bù đắp được.
Cả tấm lòng của nhà thơ cuối cùng được cô đọng lại trong hình ảnh “một cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được lý giải dưới vô vàn góc độ khác nhau. Có nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, thu vàng và mênh mông” (Bích Khê), có nỗi buồn trước “liễu sầu” (Xuân Diệu), có nỗi buồn khi nghe tiếng gà gáy. hồi hộp trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng lênh đênh vô định trong dòng đời. Vì vậy, “lạc mấy đường, cụt một cành” là điều khó tránh khỏi.
Khổ thơ thứ hai nối tiếp mạch thơ của khổ thơ thứ nhất:
Bài hát nhỏ của gió cô đơn
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Điều đầu tiên gây ấn tượng với người đọc là sự ngược tâm. Từ “thong thả” được đặt ở đầu câu, tiếp theo là “cồn nhỏ gió heo may”. Một câu xuất hiện liên tiếp ba tính từ chỉ sự mong manh, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Nỗi buồn, hay nỗi buồn không ai chia sẻ cứ khuấy động trong lòng tác giả.
Thay vì một bức tranh thiên nhiên như khổ thơ đầu, khổ thơ thứ hai miêu tả cuộc sống thường nhật, nổi bật nhất là hình ảnh buổi chợ chiều lúc ban ngày. Chợ vốn diễn tả cảm giác đông vui, đủ đầy, đủ đầy của cuộc sống, đúng như Nguyễn Trãi đã từng miêu tả: “Chợ cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy sự vui vẻ, nhộn nhịp của một khu chợ. Huy Cận không như vậy, ông chọn thời điểm ghé chợ như một tín hiệu nghệ thuật độc đáo. Phiên chợ là khi “mọi người đã về hết, không còn ồn ào. Trên mặt đất chỉ có vỏ bưởi, da chợ, lá nhãn, lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi lên sự hoang vắng, tồi tàn, hiu quạnh, hấp dẫn của làng quê ven sông đồng thời cũng là gợi một nỗi buồn vô hạn trong lòng nhà thơ.
Hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trong phong cách Đường Thi. Câu trước và câu sau đối nhau, sử dụng chặt chẽ các cặp động từ và tính từ giống nhau: lên – xuống, dài – rộng như mở ra thêm không gian. Dòng sông vốn đã ngập nước nay đã rộng hơn rất nhiều. Các dòng sông mở ra về chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng. Không gian dường như đang mở rộng từ từ theo mọi chiều. Đọc câu thơ ta thấy mọi vật đang tiến xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và giữa bức tranh ấy, ta thấy tâm điểm vẫn là một hình hài bé nhỏ, dường như cô đơn, lẻ loi giữa vũ trụ. Nỗi buồn, nỗi sầu của nhà thơ vì thế được nhân lên gấp nhiều lần.
Khổ thơ thứ ba tiếp tục mạch cảm xúc về sự thờ ơ, mất liên lạc giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn bèo tấm, những sinh vật nhỏ bé yếu ớt giữa mênh mông nước.
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác?
Mênh mông không một con đò qua
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Khung cảnh thênh thang, buồn bã, trống trải của Tràng giang phủ định nhiều lần. Cây cầu, con thuyền nối đôi bờ, là biểu hiện của sự gắn kết giữa con người với cuộc sống, thường gợi không khí nhộn nhịp, thân mật, gợi nhớ quê hương: Cầu là điểm hẹn của chúng ta – Đêm trăng trên cầu em thổi sáo – Đêm trăng dưới chân cầu em giặt áo – Cây cầu nối những bến bờ hạnh phúc ” (Cầu nối đôi bờ hạnh phúc). Nhưng ở đây, không có một cây cầu nối đôi bờ, nghĩa là hoàn toàn không có dấu vết của sự sống hay bất cứ điều gì gợi nên tình người, lòng người lại muốn gặp lại nhau qua đôi bờ hoang vắng.
Hai bờ sông cứ chạy mãi về phía chân trời như hai thế giới cô đơn, xa lạ, không bao giờ gặp gỡ, không có sự gần gũi của những tâm hồn đồng điệu. Khung cảnh “Tràng Giang” giờ chỉ còn là “lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”. Bức tranh thật đẹp, nhưng thật tĩnh lặng và buồn bã.
Trên mặt nước hiện lên hình ảnh cây bèo trơ trọi, lẻ loi, gợi nhớ thân phận “bèo nước” (Nguyễn Du), sự tan rã, chia ly, phiêu bạt:
Lục bình giữ nước
Trôi đâu vẫn trôi
(Nguyễn Du)
Câu thơ cho ta thấy: Hoa trôi sông cũng là kiếp người lênh đênh theo dòng chảy thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng, kéo nhau như gợn sóng trong lòng Huy Cận.
Không nhìn dòng nước buồn nữa, nhà thơ dẫn ta nhìn lên cao hơn:
Mây cao đùn núi bạc
Cánh chim nhỏ trong bóng tối.
Trong thơ Huy Cận cũng có cánh chim và mây như trong một số bài thơ cổ về chiều, tuy hai hình ảnh này không có tác dụng hỗ tương cho nhau như trong thơ cổ nhưng cũng có ý nghĩa. mâu thuẫn. Chiều đã xế chiều, nhưng từng lớp, từng lớp mây phía trên vẫn chồng chất, tạo thành những ngọn núi bạc, nổi bật trên nền trời trong xanh. Thật là một cảnh tượng hùng vĩ!
Không phải là đám mây lẻ loi giữa trời lúc chiều tà như trong thơ Hồ Chí Minh. Mây ở đây chồng chất, óng ánh nắng chiều khiến cả một vùng trời đẹp rực rỡ. Giữa khung cảnh đó, một chú chim nhỏ xuất hiện. Cánh chim bay giữa mây cao thật đẹp và hùng vĩ, như làm nổi bật sự nhỏ bé của nó. Nó cô đơn giữa bao la của đất trời, như tâm hồn thi sĩ lẻ loi giữa cõi đời này.
Đặt cánh chim và mây bạc ở thế đối lập đã khoét sâu thêm nỗi buồn trong lòng thi nhân. Nỗi buồn dường như thấm đẫm và lan tỏa khắp không gian:
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
“Lòng quê” còn là hồn quê, là tình quê trong trái tim nhà thơ, là sự hướng về của trái tim chứ không chỉ là trái tim chân quê, giản dị. Hai từ “bồng bềnh” cho ta cảm nhận được sóng đang ở bên ta, sóng cũng biết nhớ hay là tác giả đang nhớ? Hai từ “bồng bềnh” còn gợi cho ta liên tưởng đến sự thăng trầm của sóng biển hay nỗi nhớ da diết của nhà thơ khi đứng trước khung cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. Và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà liên tục, nhiều lần nhưng nó chỉ “chao đảo” chứ không nồng nàn. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương da diết khi tác giả đứng trước cảnh non sông ngút ngàn.
Câu thơ cuối kết thúc cả bài thơ. Đó là điểm sâu nhất, khép lại những suy nghĩ, cảm xúc của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không có yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp đến nhà thơ, nhưng sao nhà thơ vẫn nhớ nhà?
Đưa vào thơ từ cổ đại đến hiện đại, Thôi Hiệu từng bày tỏ nỗi nhớ của mình như thế này: “ Quê hương khuất bóng chiều tà/ Trên sông sóng buồn vì ai (Hoàng Hạc Lâu). Trước cảnh mà trào dâng thương nhớ. Và trong phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận, ta thấy không một chút bồi hồi nhưng trái tim nhà thơ vẫn hướng về quê cha đất tổ. Đủ để thấy tình yêu đất nước ấy mạnh mẽ đến nhường nào. Trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà lòng vẫn nhớ quê hương da diết mà sâu nặng. Tình yêu ấy, tấm lòng ấy, ai sánh được?
Bằng thể thơ mang đậm phong vị thơ Đường, kết cấu mạch lạc, bút pháp ngôn ngữ sáng tạo, hình ảnh tác giả, bài thơ hiện lên như một bản giao hưởng mà các nốt nhạc đều hòa chung. hát những bài hát yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà phê bình Phan Cự Đệ từng nhận xét: “Các nhà Lãng mạn đã đưa vào thơ ca của họ một tình yêu tha thiết với thiên nhiên đất nước và một sự tôn trọng đối với tiếng Việt mà lúc bấy giờ được coi như tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của trẻ thơ…
Tiếng nói trong Thơ là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ Mới là đất nước Việt Nam tươi đẹp với những nét đẹp riêng của mỗi quê hương (“Quê hương” của Tế Hanh, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, ” Đà Lạt đêm mù sương” của Quách Tấn, “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ, v.v…). Bởi vậy ta dễ đồng ý với Xuân Diệu khi ông viết: “Tràng giang” là bài thơ hát những dòng sông đất nước, dọn đường cho tình yêu đất nước.
Thời gian có thể phủi bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài thơ như thế. Cùng với tấm lòng chan chứa tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ, bài thơ sẽ sống mãi cùng chúng ta.
Phân Tích Tràng Giang – Văn Mẫu 7
Tràng giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đoạn thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người giữa quê hương. Tràng Giang được in trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm 1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối thoát nên như kéo dài vô tận.
Diện mạo đầu tiên của tác phẩm là hình ảnh một dòng sông vắng vẻ, tĩnh lặng.
Sóng lăn tăn gửi tin buồn,
Con đò xuôi mái song xuôi.
Thuyền về nước, sầu trăm phương,
Củi cành khô nằm mấy đường.
Câu thơ đầu tiên mở ra là hình ảnh dòng sông “Sóng gợn, buồn điệp điệp” với hai hình ảnh tái hiện: thiên nhiên và tâm trạng con người. Từ “trang giang” không chỉ gợi chiều dài mà còn gợi chiều rộng. Dòng sông ấy có từ “gợn” chỉ là gợn sóng, lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Bầu không khí im lặng bao trùm không gian. Từ tâm trạng của thiên nhiên, tác giả nói về tâm trạng của con người, có thể nói có nhiều gợn là rất nhiều nỗi buồn “Người buồn bao giờ mới vui”.
Từ “điệp” diễn tả tình cảm trong lòng nhẹ nhàng nhưng dai dẳng. “Con thuyền xuôi dòng nước song” Hình ảnh con thuyền xuôi dòng nổi bật giữa dòng sông trở nên nhỏ bé, lẻ loi. “Xuống mái” ở thế bị động mặc cho nước chảy. Từ láy “song song” “Chiếc thuyền về nước trăm ngã” tác giả đã sử dụng cặp từ láy ngược chiều phải chăng đây là cuộc chia ly, để mở đầu cho nỗi sầu trăm ngã.
Ở câu cuối khổ thơ một, hình ảnh giản dị, chân thực là “củi khô”. Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh sự tầm thường vụn vặt vô giá trị, không chỉ là đồ vật hư, hỏng. Lại thêm một cành khô quá đỗi tầm thường, bé nhỏ và cô đơn, kiệt quệ. Trôi vô định trong không gian bao la, ẩn sau những kiếp người và những cái tôi lạc lõng trong phong trào thơ mới Huy Cận.
Ngọn gió nhỏ, du dương, buồn bã,
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều.
Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm;
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Bức tranh chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận là gợi nhiều hơn tả. “Thơ lẻ loi ngọn gió sầu”. Từ láy “thơ thẩn” gợi sự đạm bạc, nhấn mạnh sự trống vắng nhỏ bé, quạnh quẽ giữa không gian rộng lớn chỉ có một hoang mạc nhỏ bé. Tác giả cố gắng lắng nghe tiếng nói của con người. “Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều”, đây là một câu hỏi tu từ, phủ nhận sự hiện diện của cuộc sống con người.
Ở hai dòng cuối khổ thơ thứ hai, tác giả sử dụng biện pháp đối lập “nắng lên trời”, “sông dài trời rộng”, “bến thăm thẳm thăm thẳm”. Động từ đảo ngược lên xuống gợi cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi chiều cao và chiều sâu của không gian rộng mở vô biên. Nỗi buồn tràn ngập sự sáng tạo của con người thể hiện một trạng thái cô đơn.
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác,
Mênh mông không một chuyến đò qua.
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Khổ thơ tiếp gợi lên sự vô định, “bèo cái” không đơn thuần là bèo không tìm được hướng đi của thiên nhiên. Là cả một thế hệ trẻ Việt Nam không tìm được lối đi cho mình.
Hoàn toàn không có bóng dáng con người trong toàn bộ vũ trụ này. Vì qua phà, qua cầu phải có người nhưng tác giả lại nói “không”. Dùng từ phủ định để khẳng định chỉ có một thứ “lặng lẽ bãi vàng xanh” chỉ là tự nhiên. Đó là nỗi cô đơn, bất an của một cái tôi thơ mới. Chính cảm giác ấy đã được tác giả nói đến nhiều như trong nhan đề của từ “Tiếc trời rộng nhớ sông dài” đã tạo nên điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận, con người nơi đây. đang cô đơn, bất an và gợn sóng.
Mây cao đùn núi bạc…
Con chim nhỏ: bóng hoàng hôn
Lòng đất nước dâng đầy nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khổ thơ cuối dường như mờ đi, hình ảnh “núi bạc đùn lên” là một không gian hùng vĩ, tráng lệ, từng lớp từng lớp. Tương phản với không gian hùng vĩ, tráng lệ là “chim nghiêng cánh nhỏ trong bóng chiều”. Nếu như dòng thơ trên mang dấu ấn cổ điển thì ở đây lại có yếu tố hiện đại, chú chim nhỏ đang cố vươn mình lên trong buổi chiều muộn ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang trong mình một nỗi buồn, một sự thao thức. Cánh chim không chỉ mang sức nặng của buổi hoàng hôn mà còn mang cả nỗi buồn của các nhà thơ mới.
Đến hai câu cuối bài thơ “lòng quê nhấp nhô con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đây là tính hoài cổ, tính hiện đại ở đây là sự phủ định những tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ da diết hơn, cháy bỏng hơn, đi trên con đường quê hương mà nhớ và nhớ quê hương da diết. Từ “rạo rực” như những cơn sóng của trái tim bị dồn nén trong Huy Cận.
Nhìn chung cả bài thơ buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãng mạn lúc bấy giờ, là nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa thực hiện được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. là “sầu não si”. Bài thơ “Tràng Giang” được coi là bài thơ dọn đường cho thơ viết về quê hương. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ đã tạo nên một tác phẩm hay và độc đáo.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 8
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930 – 1945) với những tác phẩm kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn với hai thời điểm: trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói, đó là bước chuyển từ sự u uất, buồn bã vì thời trước cách mạng sang không khí hân hoan sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng Giang” được viết vào thời kỳ trước cách mạng với cảm giác buồn man mác, gợi lên sự bế tắc trong cuộc đời chìm nổi của kiếp người. Đoạn thơ để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã khái quát được tư tưởng, tình cảm chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng Giang” có thể nói là cả một dòng sông dài rộng lớn vô biên. Từ Hán Việt này khiến người ta nhớ đến những bài thơ Đường của Trung Quốc. Nhưng cũng chính “Tràng Giang” này lại gợi lên tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc đến những thân phận lênh đênh, nhỏ bé sống trên dòng sông dài suy tư, dòng sông sầu.
Nhan đề bài thơ “Thở dài trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát chủ đề của bài thơ, đó là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa đất trời rộng lớn, bao la và trái đất. Cả bài thơ toát lên vẻ đẹp vừa hiện đại, vừa cổ điển cũng rất đặc trưng trong thơ Huy Cận.
Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu gợi cho người đọc hình ảnh một dòng sông đượm buồn sâu thẳm:
Sóng lăn tăn gửi tin buồn
Thuyền xuôi mái song
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy dòng
Với hàng loạt từ láy thê lương “buồn bã”, “xuống xa”, “rầu rĩ”, “lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã diễn tả trọn vẹn thần thái của Chúa. Tâm trạng và nỗi buồn vô bờ bến, vô tận của tác giả trong một thời đại quá nhiều bất công. Ngay ở khổ thơ đầu, sự đột phá giữa chất cổ điển xen lẫn chất hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền mui và hơn hết là hình ảnh “củi khô” lênh đênh một mình, đơn độc trên mặt nước bao la, vô tận, vô định.
Sức gợi của câu thơ thật ám ảnh, một dòng sông dài, một dòng sông mang vẻ đẹp u uất, tĩnh lặng, khiến người đọc cảm thấy buồn man mác. Vốn dĩ thuyền và nước là hai sự vật không thể tách rời nhưng trong đoạn thơ tác giả lại viết “thuyền về nước lòng lại buồn”. Có sự nhầm lẫn nào không, hay là một cuộc chia ly không báo trước? và nghe thật đau lòng. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mông cùng dòng sông đang chảy. Điểm nhấn của khổ thơ là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi sự cô đơn, nhỏ bé, mong manh, trôi giạt khắp nơi. Cảm nhận nỗi buồn trong khổ thơ đầu của bài Tràng Giang, có thể nói đoạn thơ đã nói lên tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung lúc bấy giờ, một cuộc đời đa tài nhưng vẫn khát khao và trăn trở giữa bộn bề cuộc sống. mạng sống. đông đúc thế này.
Ở khổ thơ thứ hai, nỗi cô đơn như được nhân đôi:
Bài hát nhỏ của gió cô đơn
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm
Song Long trời rộng bến vắng
Hai câu thơ đầu phản ánh một khung cảnh buồn bã, hiu quạnh, vắng lặng của một làng quê vô hồn. Phải chăng đó là quê hương của tác giả? Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rõ tiếng gió sầu bên sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Đến cả tiếng chợ chiều ồn ã phía xa cũng không nghe thấy, hay có lẽ nó buồn và cô đơn như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi nhiều cảm xúc, hỏi người hay tác giả như đang hỏi chính mình. Từ “đâu” hiện lên thê lương và không có điểm tựa để bấu víu.
Khung cảnh hoang vu, vắng vẻ của bến không người, không tiếng động, buồn vui lẫn lộn. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để gợi tả sự bao la đến vô cùng. Bầu trời không “cao” mà “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một từ “lẻ loi” ở cuối đoạn văn dường như đã nói lên trọn vẹn nỗi buồn sâu thẳm không biết tâm sự cùng ai.
Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm hơi ấm giữa thiên nhiên hiu quạnh này, nhưng dường như thiên nhiên không như con người mong đợi:
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác?
Mênh mông không một con đò qua
Không hỏi một chút hoài niệm
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng
Ở khổ thơ thứ ba, dường như người đọc nhận ra một sự thay đổi, chuyển động của thiên nhiên, không còn u uất, vắng lặng thê lương như ở khổ thơ thứ hai. Từ “trôi” đã diễn tả rất tinh tế sự biến đổi này của vạn vật. Tuy nhiên, từ này gắn với hình ảnh “bèo” khiến tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có chỗ bấu víu, cứ lặng lẽ trôi “về đâu”, chẳng biết. Trôi dạt về đâu, không biết sẽ dài bao lâu. Mặt nước mênh mông không một bóng thuyền. Tác giả chỉ đợi một chuyến đò để thấy rằng sự sống tồn tại, nhưng dường như là không thể.
Mong gửi gắm nỗi nhớ quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đây từ “lặng lẽ” đến thê lương, thê lương.
Ở khổ thơ cuối, dường như phong cách của tác giả được đẩy lên đến đỉnh điểm, nét chấm phá được sử dụng rất độc đáo:
Mây cao đùn núi bạc
Cánh chim nhỏ trong bóng chiều
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Có thể nói, tâm tư, tình cảm của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Những “mây cao”, “núi bạc” như trong thơ Đường càng sầu, càng buồn. Hình ảnh “chim tung cánh” và “bóng chiều” là hình dung của tác giả về cái vô hình. Không thấy bóng chiều nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả, người ta có thể hình dung được nắng chiều đang dần buông xuống.
Hai câu thơ cuối là nỗi nhớ nhà, nhớ nhà của tác giả không biết gửi gắm vào đâu chỉ biết chất chứa trong tim. Câu thơ của Huy Cận làm ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi Hiệu: “ Trên sông khói sóng buồn ai” là sóng sông hay sóng trong lòng người.
Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận với sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên u uất, hiu quạnh. Từ những lời phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận, ta thấy được nỗi cô đơn, lẻ loi của con người và một tình yêu quê hương, nhớ quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận. .
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 9
Đến với phong trào Thơ mới, ta được đắm mình trong khu vườn thơ đầy hương sắc tuyệt vời của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, rạo rực trước những vần thơ táo bạo, sung sức của Xuân Diệu, cũng không khỏi bùi ngùi trước hồn thơ trong trẻo của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ lạ lùng của Chế. Lan Viên hay say đắm hồn thơ giản dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp một nỗi buồn riêng, độc đáo đó là một nỗi buồn bao trùm, u uất, trước vũ trụ bao la, dường như chân trời nỗi buồn của nhà thơ là như vậy. Dài vô tận. Bài thơ “Tràng Giang” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách Huy Cận.
Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết năm 1940, tác phẩm bộc lộ tâm trạng u uất của con người trước cảnh vật bao la, rộng lớn, khắc họa nỗi buồn cô đơn tuyệt đối.
“Sóng lăn tăn buồn thương,
Con thuyền đi xuống mái nhà song song.”
Sóng mỏi lăn tăn giữa sông sâu. Con thuyền nhỏ lẻ loi giữa dòng sông càng làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn, con thuyền trôi vô định xuôi dòng sông rộng lớn. Những gợn sóng “điệp điệp”, mặt nước “song trùng”, cảnh vật tuy có chuyển động nhưng vẫn thấy tĩnh lặng đến lạ lùng. Dòng sông bao la vô tận, thiên nhiên vẫn tươi đẹp nhưng vẫn mang một nỗi buồn khó tả:
“Thuyền về, nước về, sầu trăm phương
Củi khô cành nằm mấy dòng”
Thuyền và nước gắn bó khăng khít và đi cùng nhau “thuyền về”, “nước về” – dường như hai đối tượng đối lập nhau gợi sự chia ly, biệt ly, cũng như nỗi buồn của nhà thơ. Vì thế. Càng cố tìm về với thiên nhiên để thoát khỏi nỗi sầu trước thế sự, trước hiện thực điên đảo, nhà thơ càng thấy mình cô đơn, buồn bã, nhỏ bé trước vũ trụ vô tận. Dòng nước lặng lẽ trôi, cành củi khô một mình lạc vào mênh mông sóng nước. Dường như anh không thể điều khiển được dòng nước của mình, trôi bâng quơ giữa sông. Khung cảnh nhẹ nhàng, êm đềm, đẹp đẽ nhưng chứa đầy nỗi buồn mênh mang. Phải chăng cảnh cũng chứa tâm trạng hay lòng người buồn khiến cảnh cũng mang nỗi buồn, bởi “Cảnh buồn bao giờ mới vui”.
Cảm giác ấy sâu lắng hơn, thê lương và cô quạnh hơn, đắm chìm trong từng cảnh vật:
“Thơ nhỏ lẻ loi trong gió
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Bãi cồn nhỏ bé, ít ỏi càng làm nổi bật thêm vẻ cô quạnh của không gian. Khung cảnh có phần hoang vu, vắng vẻ, hiu quạnh. Tiếng chợ ở xa nghe không rõ. Có những âm thanh, có những hoạt động của con người, thế nhưng, sự tĩnh lặng của thời gian, thiên nhiên và lòng người vẫn không hề vơi đi. Tiếng rao nhỏ nhoi nơi phiên chợ xa ấy không đủ xua đi nỗi buồn cô quạnh bao trùm nơi này. Càng hướng về thiên nhiên quê hương, tôi càng khao khát một điều gì đó sưởi ấm tâm hồn lạnh giá, nhưng càng thấy cô đơn trên chính quê hương mình.
Thiên nhiên đáp lại con người, sau đó là một khung cảnh đầy buồn bã và cô tịch:
“Bạn trôi về đâu, nối tiếp hàng;
Mênh mông không một chuyến đò qua.
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”.
Bèo cái trôi giữa dòng, không mục đích, không nơi quay về nên xuôi theo dòng nước. Nhìn ra bến chỉ thấy xung quanh hiu quạnh, vắng vẻ, con đò ngang qua chẳng thấy đâu, không ai làm cho mình thôi sầu, không có ai bên cạnh cho mình bớt sầu lúc này. Trông mong một chút hoạt động của con người cũng không thấy, xung quanh chỉ có bờ xanh, bãi vàng nối tiếp nhau, nỗi buồn cứ chồng chất, sao đáng thương, đau đớn làm sao.
“Tầng mây cao đùn núi bạc,
Con chim nhỏ: bóng hoàng hôn.”
Nhà thơ đã có cái nhìn rất tinh tế khi miêu tả vẻ đẹp tráng lệ, hùng vĩ, đẹp đẽ và thơ mộng của thiên nhiên. Từng lớp mây nhẹ nhàng trôi đi nay tạo thành những ngọn núi to đẹp, mỗi đám mây đều mang nội lực, mang đến sự trường sinh bất tử. Cánh chim nhỏ chao nghiêng cũng là lúc bóng chiều dần buông xuống. Khi ấy, nỗi nhớ nhà, nhớ nhà, tình cảm quê hương sâu đậm lại càng trỗi dậy, dạt dào khôn tả:
“Lòng quê đầy nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Trái tim nhân vật trữ tình lúc này chất chứa bao nhiêu tình cảm tốt đẹp quê hương. Dù buồn, tủi, nhưng nghĩ về quê hương lại càng xúc động, không nói nên lời. Phải chăng “trái tim của đất nước” là những cơn sóng lòng đang trào dâng mạnh mẽ trong tâm hồn nhà thơ mà bấy lâu nay bị kìm nén, càng yêu, càng nhớ lại càng da diết. Đứng trên quê hương mà lòng nhớ quê hương không nguôi.
Bằng những hình ảnh giàu sức gợi, đậm phong cách Đường Thi, bằng những hình ảnh cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công những biện pháp nghệ thuật độc đáo, Huy Cận đã thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. . Đoạn thơ bồi đắp, nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết và tấm lòng sâu nặng đối với quê hương dân tộc.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 10
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 – 1945. Ông quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi buồn về kiếp người và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật với những tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Khúc ca vũ trụ”, “Lời cầu nguyện” . Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông trở nên lạc quan, hứng khởi trước cuộc sống chiến đấu và dựng nước của nhân dân lao động: Trời sáng mỗi ngày”, “Đất nở hoa”, “Bài thơ cuộc đời “… Vẻ đẹp thiên nhiên và nỗi buồn thế sự, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét trong bài thơ.” Tràng Giang “. Đây là bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.
Bài thơ được trích từ tập “ Lửa thần “, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ nam sông Hồng bến Chèm, nhìn khung cảnh mênh mông sóng nước, lòng bùi ngùi, biết ơn cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh giữa dòng đời vô định. Với nỗi niềm ấy, bài thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa hiện đại, đem lại sự thích thú, yêu thích cho người đọc.
Ngỡ trời cao nhớ sống lâu
Sóng gợi một điệp buồn ở Tràng Giang
….
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ khổ thơ, nhà thơ đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ. “Trường Giang” là một cách gọi sai đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai tiếng “ông” liên tiếp gợi cho người đọc cảm giác về dòng sông không chỉ dài vô tận mà còn rộng lớn vô biên. Hai chữ “Tràng Giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi nhớ đến dòng Trường Giang trong thơ Đường Thi, dòng sông của muôn đời, dòng sông của những suy nghĩ.
Tứ thơ” Tràng Giang “cổ điển như thơ xưa” Các nhà thơ thường ẩn sau cái mênh mông của sóng, khác với các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu như các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong được hòa nhập, giao cảm thì Huy Cận lại hướng về thiên nhiên để bày tỏ nỗi ưu tư, buồn tủi về một kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng chính là vẻ đẹp quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu nhan đề giản dị, ngắn gọn vỏn vẹn bảy chữ nhưng đã nắm bắt được cảm xúc chủ đạo của cả bài: “Ở phương trời nhớ đời”. Trước cảnh “trời rộng”, “sông dài” bao la, bao la của thiên nhiên, lòng người khơi dậy cảm xúc “xót xa”, nhớ nhung. Từ “tang thương” được sử dụng rất hay, nó diễn tả tâm trạng của chủ thể trữ tình buồn, sầu, lẻ loi, lạc lõng. Và “sông dài” nghe tựa miên man ấy cứ vỗ rì rào sóng suốt khổ thơ, cứ cuộn trào trong lòng nhà thơ, làm rung động lòng người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu tiên, người đọc đã bắt gặp những làn sóng xao xuyến, xót xa ấy.
Sóng lăn tăn gửi tin buồn,
Con đò xuôi mái song xuôi.
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ thể hiện khá rõ ngay từ bốn dòng đầu này. Hai từ láy xuất phát từ “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường Thi. Và không chỉ có vẻ đẹp ấy, nó còn chứa đầy hình ảnh, gợi nhớ về những con sóng trải dài, lan xa, trùng trùng, dòng nước luôn cuốn đi muôn nơi, vô tận. Trên sông gợi sóng “điệp điệp”, mặt nước “song hành” là “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi. Trong cảnh có chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy sự tĩnh lặng, mênh mông của thiên nhiên, một dòng “Trường Giang” dài và rộng mênh mông không biết là bao nhiêu.
Dòng sông dài vô tận, vô tận, nỗi buồn của người cũng đầy trong lòng:
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường.
Thuyền và nước vốn có mối liên hệ với nhau, thuyền trôi theo dòng nước xiết, nước đập vào thuyền. Tuy nhiên, Huy Cận thấy thuyền và nước đã chia tay, xa “thuyền về nước” nên ngậm ngùi nghe vì sao.
Chính vì thế nó gợi lên trong lòng người nỗi niềm “trăm sự sầu”. Từ nhiều “trăm” tương ứng với từ “nhiều” thổi vào bài thơ nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: “ Củi khô cành nằm mấy dòng” . Huy Cận đã khéo léo sử dụng phép đảo ngữ kết hợp với từ ngữ chọn lọc, thể hiện sự cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi sự đạm bạc, nhỏ bé, “cành khô” gợi sức sống khô héo, cạn kiệt, “lạc trôi” mang nỗi buồn vô định, lênh đênh bập bềnh trên “mấy con suối” của vùng nước thiên nhiên rộng lớn. bao la. Cành khô ấy trôi về đâu đó, hình ảnh giản dị, không tô vẽ nhưng đầy rùng rợn, khiến người đọc cảm thấy trống trải, cô đơn.
Vẻ đẹp cổ điển qua bút pháp “tả cảnh ngụ ngôn” điêu luyện, tài hoa của tác giả đã gợi tả một nỗi buồn man mác như sóng sẽ tiếp tục vỗ về ở những khổ thơ còn lại để người đọc đồng cảm. , hiểu một nét tâm trạng chung ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta còn thấy một vẻ đẹp hiện đại rất thơ mộng của khổ thơ. Chính ở cách nói đặc biệt “Một cành khô” không chỉ ghi lại cảm xúc của cả khổ thơ mà còn bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình, một cảm giác cô đơn, lạc lõng.
Cảm giác ấy được bộc lộ nhiều hơn qua hình ảnh cô quạnh giữa không gian lạnh lẽo.
Bài hát nhỏ của gió cô đơn
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều.
Hai từ “lười biếng” và “thích thú” được tác giả khéo léo sắp xếp trên cùng một dòng thơ tạo nên một khung cảnh tĩnh lặng. “Thơ thẩn” gợi sự đạm bạc, “ốm yếu” gợi sự cô đơn. Giữa cảnh “cồn nhỏ”, gió “đìu hiu”, một khung cảnh hoang lạnh, con người trở nên cô đơn, sợ hãi đến nỗi thốt lên “Tiếng làng đâu xa chợ chiều”.
Vừa là câu thơ nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm hưởng xa xăm, không trong trẻo, có thể là câu hỏi “đâu” như nỗi nhớ mong, khao khát một chút hạnh phúc của nhà thơ. hoạt động của con người, âm thanh của cuộc sống. Cũng có thể là “hư không”, một sự phủ định hoàn toàn, quanh đây không có gì sống động để xua đi sự cô tịch của thiên nhiên. Đôi mắt của nhân vật trữ tình như dõi theo ánh nắng và dòng chảy của dòng sông.
Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm,
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
“Mặt trời lặn, trời mọc” gợi sự chuyển động, giãn nở trong không gian, và cả sự chia cắt” bởi vì mặt trời và bầu trời tách biệt với nhau. “Sâu chót vót” là một khung cảnh biểu hiện mới mẻ, sáng tạo của Huy Cận, mang vẻ đẹp hiện đại. Con mắt nhà thơ không chỉ dừng lại ở ngoại cảnh mây trời, mà còn nhìn thấu cả vũ trụ, không gian rộng lớn vô tận. Thế giới tự nhiên ấy quả là rộng lớn với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì nhỏ bé, hiu quạnh” “bến lẻ loi”.
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện lên qua những thi liệu quen thuộc trong Đường Thi như “dòng sông, bầu trời, ánh nắng, kiếp người buồn tẻ, chán chường “chợ chiều”, vạn vật đã tan tành, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn dòng sông, nhìn cảnh vật xung quanh, ao ước một cái gì đó thân thuộc để đem lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm dần vào giá lạnh, về sự cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp lại niềm khao khát ấy bằng những hình ảnh càng vắng vẻ, hiu quạnh.
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác,
Mênh mông không một chuyến đò qua.
Không chút thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Hình ảnh bèo trôi trên sông là một hình ảnh thường được sử dụng trong thơ ca cổ điển, nó gợi lên một cái gì đó bấp bênh, trôi nổi của một kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hai cánh bèo mà là “hàng nối tiếp hàng”. Trôi theo dòng nước khiến con người cảm thấy choáng ngợp trước thiên nhiên, để lòng thêm đau đớn, cô đơn. Bên cạnh những hàng bèo là “bờ xanh nối tiếp bãi vàng” như mở ra một không gian bao la, vô tận, thiên nhiên thuận theo tự nhiên, dường như không có con người, không có hoạt động của con người. , không hài hòa, kết nối:
Mênh mông không một con đò qua
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật.
Tác giả cung cấp một cấu trúc tiêu cực “…không không ” để phủ nhận hoàn toàn các kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ lúc này không còn gì gợi sự thân thiết để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bủa vây, bao bọc, chỉ có một thiên nhiên rộng lớn, bao la. Cây cầu hay bến phà qua lại, phương tiện kết nối của con người dường như đã bị thiên nhiên nhấn chìm và trôi dạt về đâu đó.
Huy Cận đã khéo léo vẽ nên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại cho bầu trời trên cao.
Mây cao đùn núi bạc,
Cánh chim nhỏ trong bóng tối.
Lối văn nổi bật với “mây cao đùn núi bạc” thành “tầng lớp” đã khiến người đọc liên tưởng đến những đám mây trắng dưới nắng óng ánh như dát bạc. Hình ảnh cổ điển đẹp trữ tình và càng thi vị hơn khi được lấy cảm hứng từ một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây phủ, cổng trời xa.
Huy Cận đã sử dụng rất tài tình động từ “đùn”, làm cho mây chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra. Đây cũng là một nét thơ đầy tính hiện đại, bởi nó đã vận dụng một cách sáng tạo từ thể thơ cổ điển quen thuộc.
Và tính hiện đại được bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm tình thái ở đoạn thơ sau. Dấu hai chấm này gợi ý mối quan hệ giữa con chim và bóng chiều.” Con chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều rơi cả trên mặt Tràng Giang, hay chính bóng chiều đè nặng cánh chim nhỏ nghiêng cả lối đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi thời gian bởi sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều” là những hình ảnh thẩm mỹ để miêu tả cảnh hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 11
Thời đại thơ ca Việt Nam mới ghi dấu ấn thành công của nhiều thi nhân tài hoa. Đó là một Xuân Diệu với khát vọng tình yêu cháy bỏng, mãnh liệt. Một Chế Lan Viên loay hoay tìm cái tôi cá nhân. Một Hàn Mặc Tử chìm đắm trong thực và mộng. Và cũng có nhà thơ – con người mang tâm hồn của kẻ si mê, bấp bênh giữa thế gian bao la. Thơ ông súc tích nhưng hàm chứa nhiều triết lý, nhiều dòng suy tư miên man. Đó không ai khác chính là Huy Cận – nhà thơ đã để lại cho đời biết bao tác phẩm đặc sắc, nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến bài thơ “Tràng Giang”.
Hoàn cảnh sáng tác chính xác của Tràng Giang là vào tháng 9 năm 1939, khi Huy Cận vừa bước vào tuổi 20, đang học trường Cao đẳng Canh Nông. Đoạn thơ là một phút ngẫu hứng của nhà thơ trong một buổi chiều đạp xe ra bến Chèm ngắm dòng sông Hồng đang chảy. Biết bao nỗi nhớ, biết bao cảnh buồn, nỗi cô đơn của một cái “tôi” trước thiên nhiên cứ tuôn trào để trở thành một bài thơ lưu truyền hậu thế cho đến ngày nay.
Ban đầu bài thơ có tên là “Chiều bên sông” sau đó tác giả đổi thành “Tràng Giang”. So với nhan đề cũ, Tràng Giang mang âm Hán Việt trang trọng và cổ kính hơn. Sự dàn trải của vần “ang” không chỉ gợi tả sự bao la choáng ngợp của không gian thiên nhiên sông nước mà còn gợi nỗi buồn không nguôi. Sau nhan đề là đề từ “Vỡ trời rộng nhớ sông dài”. Chính lời tựa này đã thu được cả cảnh lẫn tình của bài thơ. Đâu thấy thiên nhiên bao la không thấy tận cùng, nỗi buồn thương rộng dài vô tận.
Trong bài thơ Tràng Giang, có thể thấy hai bức tranh tả cảnh và tả tâm trạng của nhà thơ rất rõ nét. Về cảnh vật, tất cả đều nhuốm một màu hiu quạnh, vắng vẻ, hiu quạnh. Nhà thơ mở đầu bằng bốn dòng:
“Sóng lăn tăn buồn thương, Con đò xuôi mái song xuôi. Thuyền về nước sầu trăm phương; Củi khô cành nằm mấy dòng”
Điệp từ kết hợp với trạng thái buồn mở tạo nên một nốt trầm trong cung bậc cảm xúc khi mới đọc những câu thơ đầu. Ta không chỉ thấy sóng sông lăn tăn, mà còn thấy sóng lòng thi nhân dường như đang lan tỏa giao hòa với đất trời. Con thuyền trên sóng nước cũng không thèm bẻ lái để mặc “nước song”. Để rồi kết thúc, “Thuyền về nước, sầu trăm phương” nhuốm màu buồn chia ly. Bài thơ rất cổ điển, tưởng chừng như một nhà thơ Trung Quốc sáng tác, cho đến khi tác giả nhắc đến hình ảnh củi. Bèo cũng chẳng hoa trôi sông, đây là cành củi lạc trôi vô định. Tình trạng củi khô héo, trôi sông ngày càng lung lay.
Hai dòng đầu của khổ thơ thứ hai tiếp nối nỗi buồn len lỏi vào từng không gian:
Ngọn gió nhỏ, du dương, buồn bã, Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều? Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm; Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Nỗi buồn man mác, mơ hồ xen lẫn với vẻ hiu quạnh, hiu quạnh của đôi bờ sông. Nhà thơ muốn nghe nhiều, muốn thấy nhiều người nói cười, nhưng “Tiếng làng đâu xa chợ chiều”. “Where” ở đây là thành ngữ “somewhere” hay “where” – tác giả không nói rõ cho bạn đọc. Từ láy tạo cảm giác xa vắng, buồn tẻ, hiu quạnh. Vì thế muốn nghe âm thanh của cuộc sống nhưng cuối cùng đáp lại tấm lòng thi nhân chỉ là khung cảnh hoang vu, man mác buồn.
Rồi bất ngờ, điểm nhìn thấp bất ngờ được đẩy lên cao.
“Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm; Song Long trời rộng bến vắng”
Ngòi bút Huy Cận vẽ về “nắng”, “trời”, “dòng sông”, “bến”. Cảnh vật vốn quen thuộc trong thơ ca nay mang một tâm trạng khác bởi cách dùng từ tinh tế. Tác giả miêu tả “trời thăm thẳm” thay vì “trời cao ngang trời”. Bởi “sâu” ở đây không chỉ là chiều không gian của cảnh vật mà nó còn gợi một nỗi buồn không đáy, một nỗi buồn trải dài đến vô tận của lòng người. Người buồn có bao giờ vui, để rồi cuối cùng chỉ còn lại “Sông dài, trời rộng, bến vắng”.
Đến khổ thơ thứ ba, dường như tác giả đã hoàn toàn bất lực để lôi mình ra khỏi nỗi buồn bao trùm.
“Bạn trôi về đâu, nối tiếp hàng; Mênh mông không một chuyến đò qua. Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật, Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”.
Huy Cận dùng hình ảnh “bèo” – một thứ nhỏ bé, tầm thường thay cho lời miêu tả về kiếp người có số phận bấp bênh, lênh đênh, vô định giữa dòng đời. Cả 4 khổ thơ không thấy bóng dáng con người xuất hiện. Tất cả chỉ có tự nhiên theo tự nhiên, nỗi buồn nối tiếp nỗi buồn. Cấu trúc phủ định “không qua lại” – “không gọi thân mật” đã xóa bỏ mối liên hệ giữa con người với nhau. Khó có thể bắt gặp ở “Tràng Giang” một chút dấu vết nào của nhịp sống hối hả, tất bật, hối hả của đời thường. Điều khiến độc giả đắm chìm chỉ là một nỗi buồn khó tả.
Khổ thơ cuối, nỗi cô đơn đến đây được đẩy lên cao như một nốt cao trong bản giao hưởng buồn.
“Tầng mây cao đùn núi bạc, Cánh chim nhỏ: bóng hoàng hôn. Lòng đất nước dâng đầy nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Những bài thơ cổ điển. Huy Cận dùng nét chấm chấm để vẽ bức tranh màu nước núi, mây, cánh chim nghiêng, bóng chiều, khói chiều. Trời đổ bóng hoàng hôn, nỗi cô đơn càng thấm thía. Chú chim lẻ loi xuất hiện một mình khiến người đọc đặt ra hai giả thuyết. Con chim nghiêng đôi cánh nhỏ kéo bóng chiều xuống dòng sông, hay chính bóng chiều buông dần nặng trĩu trên cánh chim nghiêng. Nhưng dù thế nào, khung cảnh lúc này cũng nặng trĩu nỗi niềm của nhà thơ đa cảm. Từ “nặng trĩu” diễn tả nỗi buồn cô đơn dâng lên trong lòng. Tất cả những cảm xúc dồn lại để mang lại cảm giác “nhớ nhà”. Câu cuối bài “Tràng Giang” làm ta liên tưởng đến đôi câu thơ cũ của Thôi Hiệu:
“Nhật hương quan xứ thị mộ Yên ba chán dùng thượng căng.”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng buồn ai?)
Hàng ngàn năm trước, các nhà thơ Trung Quốc nhìn thấy khói sóng trên sông mà thấy buồn, nhưng Huy Cận, nỗi buồn cứ đến một cách tự nhiên. Không cần bất kỳ tác động bên ngoài. Tất cả dâng trào trong tâm hồn bơ vơ, lo âu, cô đơn, da diết với cuộc đời.
Bằng những từ ngữ giàu sức gợi, lối viết cổ điển mang đậm nét Đường Thi, Huy Cận đã tạo nên một Tràng Giang nhuốm màu u buồn, cô quạnh. Một cái “tôi” cô đơn trong vũ trụ bao la vô thường đã được bộc lộ rất rõ nét. Đồng thời thể hiện rõ nỗi nhớ nhà, da diết trong tâm hồn thi sĩ đa cảm.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 12
Nhan đề bài thơ “Thương trời rộng nhớ sông dài”, là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận trong bài thơ “Tràng Giang” đã khắc sâu vào thời gian và tâm hồn con người hơn nửa thế kỷ qua. “Tràng giang” là một tuyệt tác thơ in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940.
Theo tác giả, vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Nông nghiệp, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, nhìn dòng sông Hồng mênh mông, lòng dạt dào cảm xúc và đã viết bài này. bài thơ. . Đó là những cảm nhận về dòng sông và một nỗi buồn sâu lắng dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh “Sông dài trời rộng bến vắng”.
Khổ thơ đầu nói về “sóng lăn tăn”, con thuyền và cành khô lênh đênh trên sông:
“Sóng lăn tăn buồn thương,
Thuyền xuôi mái song”.
Tràng Giang – những con sông dài và rộng lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang,… ở đây là dòng sông Hồng thân yêu, dòng sông “đỏ nặng phù sa”. Gợn sóng lăn tăn, lớp lớp “buồn điệp điệp”, như vỗ về, thấm sâu vào lòng người. Con thuyền nhỏ trôi xuôi dòng buông mái chèo “nước song”.
Cặp từ ghép: “điệp điệp” và “song song” gợi lên một nỗi buồn thăm thẳm, xa xăm và mông lung. Hình ảnh cành củi khô vừa hiện thực, vừa tượng trưng. Cái “gỗ cành khô” bé nhỏ, tầm thường trôi dạt từ rừng xa được đưa vào thơ, tạo nên một “hương vị mới” của thơ mới. Nó còn tượng trưng cho kiếp người phù du, nhỏ bé lênh đênh trên dòng đời vô định. Buồn quá, biết đi đâu?
“Thuyền về nước trăm sầu;
Củi cành khô nằm mấy đường”.
Các phép đối được sử dụng một cách sáng tạo, chỉ có đối lập và đối lập mà ý thơ vẫn hài hòa. Thuyền và củi khô cùng nhau lênh đênh trên sông. Huy Cận nói nhiều đến “sầu ngàn xưa”, “buồn của trời”, ở đây ông viết “sầu lẻ bóng ngả nghiêng”. Cả cõi dương lẫn cõi âm? “Trăm sầu” dường như trải rộng và bao trùm lên những kiếp người đau thương. Số chữ trong ba câu thơ “sầu trăm lối”, “củi cành khô”, “lạc mấy dòng” đã nói rõ nỗi ám ảnh về kiếp người nhỏ nhoi. thì hữu hạn, đau khổ và nghiệt ngã thì lớn. lớn, vô hạn.
Nỗi buồn vô hạn đó được diễn tả qua một không gian rộng lớn. Cái nhỏ bé đối lập với cái rộng lớn, vô hạn. Đảo nhỏ, thưa thớt và buồn: “Thơ thấp ngọn gió nhỏ hiu quạnh”. Vần lưng: “nhỏ – gió”, kết hợp với các vần: “lười biếng” và “thơm thoắt”, câu thơ như vang lên trong lòng người về một nỗi buồn lẻ loi, cô đơn. Nghệ thuật dùng từ tài hoa, gợi màu sắc cổ kính, dẫn tâm hồn người đọc trở về với thơ cổ: “Non Ky quay trăng treo – Bến Phì gió thổi mấy gò” (Chinh phụ ngâm), “Liễu buông tơ buông” hạ màn…” (Truyện Kiều).
Chợ chiều vốn đã buồn, khi ghé qua chợ chiều, nỗi buồn xa vắng như được nhân lên gấp nhiều lần. Nhưng giờ đây tiếng “chợ chiều” từ một làng xa đã không còn nữa. Từ “đâu” diễn tả nỗi bâng khuâng của nhà thơ với một nỗi buồn cô đơn chất chứa trong lòng: “Tiếng làng đâu xa chợ chiều”.
Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Bầu trời thăm thẳm đáy sông. Người ta thường nói: “chót vót”, “sâu thăm thẳm”, nhưng Huy Cận lại viết: “sâu chót vót” để làm nổi bật hai tiểu đoạn: “nắng lên” và “trời lên”, cái bao la. , sự bao la, choáng ngợp của dòng sông, bầu trời và bến xa:
“Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm;
Song Long trời rộng bến vắng”.
“Tràng Giang” là bài thơ tiêu biểu rực rỡ, lung linh nhất của “Lửa thiêng”. Nói đến “Tràng Giang” là nói đến “Lửa thiêng”. Nói đến “Lửa thiêng” là nói đến nỗi buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, tưởng như chất chứa “lớp sầu tận đáy tâm hồn con người! (Xuân Diệu).
Câu hát “bèo dạt mây trôi” trong dân ca Quan họ từng gợi bao cảm xúc mơ hồ trong tâm hồn ta. Ở khổ thơ thứ ba, Huy Cận lấy cánh bèo trôi trên sông làm biểu tượng cho sự hợp và ly trên dòng đời của những kiếp người lưu lạc:
“Bạn trôi dạt từ hàng nào đến hàng nào;
Mênh mông không một chuyến đò qua.
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Giữa bao la của đất trời, dưới sông hầu như không có bóng dáng con người. Câu thơ bị phủ định bởi liên tiếp tiếng “không”: “đò chẳng qua”, “chẳng hỏi thăm thân tình” và chỉ có màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của bến bờ vô tận. Nỗi buồn, sự ảm đạm của một tâm trạng được thể hiện trong một không gian “mênh mông” và “lặng lẽ”. Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng hôn trong thơ xưa thường gắn với tình yêu quê hương
“Dừng và dừng: trời vẫn nước
Một phần của tôi với hoàn cảnh của riêng tôi”.
(Qua Đèo Ngang)
Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn sóng nước mờ trên sông lúc hoàng hôn, lòng thổn thức:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng buồn ai?”.
(Tản Đà dịch)
Huy Cận đã lựa chọn một số chất thơ đặc sắc để miêu tả một đất nước đầy tình yêu: cánh chim chiều, lớp lớp núi non, mây bạc. Không khói sóng mà lòng vẫn nhớ quê hương da diết:
“Tầng mây cao đùn núi bạc,
Cánh chim nhỏ: bóng hoàng hôn.
Lòng đất nước dâng đầy nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Đoạn thơ giàu chất thơ, giàu hình ảnh và tràn đầy cảm xúc. Hồn thơ Đường như quyện vào câu chữ. Những ai đã xa quê, trong khoảnh khắc chiều tà mới thấy hết vẻ đẹp (đẹp mà buồn) trong những bài thơ về tình quê, về lòng đất nước. “Nay hoàng hôn đã về” (Truyện Kiều),..: “Người từ Chương Đài, kẻ lữ hành – Ai kể được cơn lạnh” (Chiều nhớ nhà). – Từ cảm xúc ấy, ta như bâng khuâng thả hồn mình vào “Tràng Giang”, lặng nhìn “nước” mà “nhớ nhà”, nhớ quê hương da diết.
Huy Cận không cần khói sóng mà lòng quê vẫn “cứng ngắc”, vẫn “nhớ quê”. Rõ ràng tình yêu quê hương trong Huy Cận vô cùng nồng nàn, dịu dàng. Đúng là thơ chân chính làm lay động lòng người, khơi dậy những gì đẹp đẽ nhất ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn con người để vươn tới cái cao siêu. Đọc “Tràng Giang” ta càng cảm nhận sâu sắc hơn chân lý ấy.
“Tràng Giang” là một trong những bài thơ hay nhất của Huy Cận trong tập “Lửa thiêng”, ngọn lửa bất diệt soi sáng hồn thơ cao đẹp. Nhà thơ đã chọn một câu thơ bảy chữ với bốn khổ thơ, như một tuyệt phẩm của một bài tứ tuyệt. Một nỗi buồn da diết được thể hiện từng lớp qua những vần thơ hay và súc tích.
“Trường Giang” là bài thơ hát vang non sông đất nước, dọn đường cho những con người mới có “Hoa Đất” và “Những Bài Thơ Đời” thân thương, ấm áp… trong tương lai. Đọc “Tràng Giang” để ta thêm yêu, thêm nhớ đất trời, sông núi quê hương.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 13
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét rằng: “Đời ta ở trong vòng ta. Mất chiều rộng, chúng ta tìm kiếm chiều sâu. Nhưng càng vào sâu càng lạnh. Tôi cùng Thế Lữ trốn vào tiên cảnh, tôi phiêu bồng cùng Lưu Trọng Lư, tôi phiêu bồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, tôi mê đắm Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã đóng cửa, tình không bền, điên rồi tỉnh, đắm say rồi vẫn bơ vơ. Tôi buồn hồn tôi về với Huy Cận”. Và bài thơ Tràng giang sẽ là một tác phẩm tiêu biểu mang nỗi buồn u uất của nhà thơ.
Trong phong trào thơ mới 1930-1945, có thể nói nhà thơ Huy Cận đã ghi dấu ấn và khẳng định tên tuổi của mình. Cù Huy Cận là tên thật của nhà thơ, ông có một giọng thơ rất riêng và cá tính mang đậm dấu ấn Huy Cận. Thơ ông trước Cách mạng tháng Tám mang nỗi buồn về kiếp người và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật, trong đó Tràng Giang là tác phẩm tiêu biểu trong tập thơ “Lửa thiêng”. Bài thơ ra đời khi tác giả đứng ở bờ nam bến Chèm của sông Hồng. Lòng anh xót xa cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh giữa dòng đời vô định khi nhìn cảnh sông nước mênh mông. Bởi vậy, thơ ông chứa chất sầu, buồn man mát, tạo nên những vần thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, một nét gọi là thơ Huy Cận.
Người đọc sẽ được nhà thơ dẫn dắt, mở ra vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại ngay ở khổ thơ đầu tiên. Đọc mấy dòng thơ ta như lạc vào dòng sông dài mênh mông đầy quyến rũ:
“Nhớ trời rộng nhớ sông dài
Sóng lăn tăn gửi tin buồn
…
Củi cành khô nằm mấy đường”.
Cảnh sông nước được miêu tả qua những vần thơ rất chân thực và giàu sức gợi khiến người đọc hình dung rõ nét. Những gợn sóng nhẹ nhàng, lan tỏa vô tận tượng trưng cho nỗi buồn vô tận. Nhà thơ không vẽ nên một dòng sông ồn ào, mạnh mẽ, nhộn nhịp mà gợi ra nó bằng những gợn sóng lăn tăn, nhẹ nhàng, chậm rãi. Một không gian yên ả, tĩnh lặng của miền sông nước được tác giả miêu tả chỉ qua một hình ảnh sóng nhưng vô cùng trong trẻo. Sự tinh tế trong các động tác trái phải tài tình, uyển chuyển và cũng rất Huy Cận. Vẽ một làn sóng nối tiếp nhau, kèm theo những làn sóng trái tim cuộn vào nhau qua việc sử dụng chi tiết nghệ thuật điệp từ. Những câu thơ sau được miêu tả là hình ảnh con thuyền lênh đênh, trôi lững lờ, không mục đích, không bến đỗ. Từ đó, “buồn điệp điệp” hiện ra rõ nét hơn. Ở đây tác giả nói “thuyền về, nước lại về” rất trái với tự nhiên ta thường thấy là nước đẩy thuyền ra xa và chúng không bao giờ tách rời nhau. Sự mâu thuẫn và phi lý trong đó đan xen với ý nghĩa sâu sắc, là tấm lòng của người lữ khách sông nước. Hình ảnh tổng kết nỗi buồn mênh mang của nhà thơ, người đọc cảm nhận rõ hơn qua hình ảnh “củi mấy dòng lạc một cành khô”, củi chỉ những số phận lênh đênh, lênh đênh nhỏ bé, vô định giữa cuộc đời. .
Tiếp nối câu thơ ở khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai làm nổi bật sự cô quạnh, vắng lặng của cảnh chiều tà:
“Thơ nhỏ lẻ loi trong gió
…
Song Long trời rộng bến vắng”
Ngay đầu khổ thơ đã sử dụng phép đảo ngữ đầy ấn tượng, cùng với từ láy “thơ rời” có giá trị biểu cảm cao. Tác giả đã gửi gắm sâu sắc về con người khi đứng trước không gian ấy sẽ trở nên cô đơn hơn, khao khát được nghe âm thanh của cuộc sống, con người ở ba tính từ liên tiếp xuất hiện trong câu thơ “nhỏ bé, nhỏ bé, lẻ loi”. sự sống được tái hiện ở đây là cảnh chợ chiều thưa thớt và vắng vẻ, sự lựa chọn này thể hiện nét độc đáo trong nghệ thuật.Lòng quê sông nước lúc này chỉ còn lại sự hoang vắng, tồi tàn, hiu quạnh, trong đó là nỗi lòng vô hạn của nhà thơ. Hai câu cuối mở ra không gian ở nhiều chiều: cao, sâu, rộng, dài.Dòng sông vốn bao la, choáng ngợp nay rộng lớn hơn nhiều.Tâm điểm của bức tranh là một dáng người bé nhỏ, lẻ loi giữa vũ trụ nên nỗi buồn của nhà thơ như nhân đôi.
Tiếp nối mạch cảm xúc ở khổ thơ thứ ba:
“Em đi đâu, hết hàng này đến hàng khác
…bờ xanh gặp bãi vàng”
Sự bồng bềnh, vô định chưa dừng lại, ở khổ thơ này hiện lên trước mắt là hình ảnh “bạn trôi dạt về đâu”, “bờ xanh bên bãi vàng” tiếp tục gợi lên sự tĩnh lặng, cô đơn đến nao lòng. khiến nhà thơ khát khao một sự đồng điệu, một chuyến đò qua là một cây cầu dường như là một sự phủ định qua phép ám chỉ “không”. Nhà thơ đã cảm nhận được nỗi cô đơn, lạc lõng trước cảnh sông dài biển rộng khi đứng ngay giữa cảnh sông nước. Nhà thơ khao khát được nhìn thấy sự thân tình, giao lưu của con người với con người, nhưng dường như mọi thứ đều ngăn cách mọi thứ. Một nỗi buồn về thế sự, cuộc đời chất chứa sâu thẳm trong thi nhân.
Khép lại bài thơ bằng khổ thơ cuối là một cái nhìn cao hơn, thơ mộng hơn mà nhà thơ đưa người đọc đến:
“Tầng mây cao đùn núi bạc
… Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Khổ thơ cuối toát lên một màu sắc thơ Đường khá rõ nét, từ những hình ảnh ước lệ đến việc sử dụng thi liệu Đường luật. Hình ảnh lấy từ câu thơ của Đỗ Phủ thể hiện sự hùng vĩ của thiên nhiên, nhưng với Huy Cận không sao chép nguyên văn, có sự kế thừa nhưng cách miêu tả thiên nhiên của ông lại trở nên lung linh, lộng lẫy riêng. Hai câu thơ cuối xuất hiện với ngôn ngữ cổ điển nhưng cảm xúc rất hiện đại, thể hiện sự cô đơn, bơ vơ, sợ hãi trước cuộc đời. “Con chim nhỏ tung cánh” là sự vùng vẫy, bối rối trong không gian bao la. Hơn thế, tác giả còn vang vọng nỗi nhớ nhà, nỗi khát khao tìm một điểm tựa cho tâm hồn trống vắng của mình.
Một trong những tác phẩm thơ Mới dịu dàng, sầu muộn mang phong cách hiện đại mà vẫn cổ điển, lãng mạn chỉ có thể nói đến Tràng Giang của Huy Cận. Nhà thơ đã rất tinh tế trong việc sử dụng các yếu tố nghệ thuật để miêu tả thiên nhiên, từ đó làm toát lên cái tôi lãng mạn đương đại rất hiện thực.
Phân Tích Tràng Giang – Văn Mẫu 14
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với một “hồn thơ biến ảo”. Thơ Huy Cận luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi cảnh thiên nhiên hoang sơ, rộng lớn và luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Bài thơ “Tràng Giang” in trong tập “Lửa thiêng” là một trong những sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.
“Tràng Giang” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay từ nhan đề và nhan đề bài thơ. Nhan đề bài thơ là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, có nghĩa là sông dài. Nhưng đặc biệt ở chỗ, tác giả không dùng “trường giang” mà dùng “trang giang” với hai vần “ang” – hai vần mở, có âm và kinh nối tiếp nhau, gợi lên trong người đọc cảm nhận về một dòng sông vừa dài vừa rộng. rộng. Ngoài ra, câu thơ nhan đề của tác phẩm “Thương trời rộng nhớ sông dài” cũng đã khái quát một cách ngắn gọn và đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ là bức tranh thiên nhiên trời rộng sông dài. còn cảm xúc bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ nhung, nỗi buồn da diết dường như lan tỏa vào mọi cảnh vật.
Từ nhan đề và câu thơ tựa của bài thơ, khổ thơ đầu mở ra một không gian sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất mở ra hình ảnh cả một vùng sông nước rộng lớn.
Sóng lăn tăn gửi tin buồn
Dường như dòng sông “trang giang” đã dài nay như dài ra thêm theo từng đợt sóng “điệp điệp” cứ vỗ bờ không ngừng, không ngừng nghỉ. Những con sóng ấy như kéo dài đến vô tận, làm nổi bật cả không gian bao la, rộng lớn của dòng sông. Và rồi, trên nền sông nước mênh mông ấy, hình ảnh con thuyền hiện ra thật nhỏ bé, cứ thế “xuôi mái song”. Sự tương phản giữa không gian sông nước bao la và hình ảnh con thuyền nhỏ bé gợi lên trong ta sự cô đơn, lẻ loi. Đặc biệt, khổ thơ đầu còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi hai dòng thơ cuối.
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy dòng
Từ xưa đến nay thuyền và nước là hai hình ảnh luôn đi đôi với nhau, vậy mà ở đây hình như thuyền và nước có một cuộc chia ly buồn chờ đợi. Có lẽ vì thế mà khung cảnh ấy khiến lòng người “buồn trăm bề”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy, hình ảnh “củi mấy hàng, cành khô” gợi lên trong lòng người đọc nỗi ám ảnh khôn nguôi về cõi người, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu. . đâu bởi trăm đường dài vô tận. Như vậy, ở khổ thơ đầu, nếu coi dòng sông là dòng đời bất tận thì hình ảnh con đò và cành củi khô lại là biểu tượng cho kiếp người nhỏ bé, vô định. Đồng thời, khổ thơ cũng gợi lên nỗi buồn khôn nguôi của tác giả.
Nếu như ở khổ thơ đầu tác giả vẽ nên một không gian sông nước bao la thì ở khổ thơ thứ hai tác giả lại mở ra không gian của một cồn cát nhỏ. Hai câu mở đầu của khổ thơ thứ hai vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.
Ngọn gió nhỏ, du dương, buồn bã,
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đặc biệt các từ láy “liêu xiêu”, “thơm thoắt” có sức gợi liên tưởng, tác giả đã vẽ nên một bức tranh làng quê nhỏ hiu hắt, vắng vẻ, lạnh lẽo và gợi một nỗi buồn man mác. bao la. Thêm vào đó, cái không gian hoang vắng, vắng lặng của không gian dường như càng được tô đậm qua câu thơ “tiếng làng đâu xa tiếng chợ chiều”. Có thể nói đây là câu thơ có nhiều cách hiểu, “đâu” là hư không, là để phủ định tiếng chợ chiều hay đâu đó, để gợi lên âm thanh thoang thoảng của tiếng chợ. Nhưng có lẽ dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn man mác, hoang vắng, mục nát, thiếu vắng sự sống của con người. Nếu như hai câu đầu của khổ thơ thứ hai gợi lên một không gian nhỏ bé hiu quạnh thì ở câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng ra cả bốn phía, làm cho khung cảnh vốn đã vắng vẻ lại càng thêm hoang vắng. cô đơn và lặng lẽ hơn.
Đúng xuống, bầu trời rất sâu
Song Long trời rộng bến vắng
Trong hai câu thơ, tác giả sử dụng “sâu chót vót” thay cho “chót vót” bởi từ “sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi một không gian bao la, thăm thẳm mà còn gợi cả nỗi buồn man mác. nỗi cô đơn của lòng người trước sự bao la, hoang vắng của cảnh vật.
Như vậy, trong hai khổ thơ đầu, nỗi buồn của nhà thơ dường như bao trùm lên mọi cảnh vật, trong một không gian rộng lớn, bao la. Và rồi, ở khổ thơ thứ ba, tác giả trở lại không gian sông nước với khung cảnh mênh mông, hiu quạnh, không có sự sống của con người.
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác?
Mênh mông không một con đò qua
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật
Lặng lẽ bờ xanh nối tiếp tấm thiệp vàng
Hình ảnh “dòng nước trôi về đâu” một lần nữa gợi lên trong người đọc hình ảnh về một kiếp người, một cõi người trôi nổi, không biết đi đâu, về đâu. Ngoài ra, khổ thơ với việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp đi lặp lại càng nhấn mạnh sự cô đơn, thiếu sức sống của cảnh vật. Thông thường chúng ta thường thấy đò, cầu là những phương tiện, hình ảnh thể hiện sự giao lưu, kết nối giữa con người với con người, giữa vùng đất này với vùng đất khác, nhưng ở đây thì “chẳng ra gì”. chuyến đò”, “không cầu” hình như ở đây không có gì nối đôi bờ lại với nhau, thiếu dấu vết của cuộc sống, của bóng người và trên hết là tình người, sự chan hòa, thân thiết giữa con người với nhau. Có lẽ vì thế mà hai bờ sông có thể đi mãi mãi mà chẳng bao giờ gặp được nhau, chỉ còn đây những bờ xanh, những bãi vàng nối tiếp nhau – một bức tranh đẹp nhưng yên ả và hiền hòa đến buồn.
Nếu như ở ba khổ thơ trên, tác giả vẽ nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hoang vắng với nỗi buồn hiu quạnh thì ở khổ thơ cuối, tác giả đã điểm thêm cho bức tranh thiên nhiên ấy một màu sắc mới. Đằng sau đó là nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả.
Mây cao đùn núi bạc
Con chim nhỏ: bóng chiều tà
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai dòng đầu của khổ thơ cuối vẽ nên bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Hình ảnh những đám mây trắng hết lớp này đến lớp khác “đùn” trong nắng chiều như tạo nên những ngọn núi dát bạc. Dường như chỉ với một câu thơ tác giả đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp. Và rồi, trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ ấy hình ảnh cánh chim hiện lên như một tia sáng ấm áp cho cảnh vật nhưng nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn nhà thơ. Dường như sự tương phản giữa cái nhỏ bé của cánh chim chiều với cái bao la, hùng vĩ của “tầng mây cao” khiến không gian như rộng ra và nỗi buồn, sự cô đơn của thi nhân cũng tăng lên. Và rồi, trước không gian ấy, lòng nhà thơ hiện lên nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng. Hình ảnh “bồng bềnh cùng nước” không chỉ miêu tả những con sóng đang lan xa mà hơn thế nó còn gợi cho nhà thơ nỗi niềm hoài cổ vô tận – nỗi niềm của những người con xa xứ nhớ quê hương da diết. Đặc biệt, câu thơ điển tích khép lại bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, rõ ràng nỗi nhớ quê hương của nhà thơ và tâm trạng đó cũng là tâm trạng chung của tầng lớp tiểu tư sản. vào thời điểm đó.
Tóm lại, bài “Tràng Giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và hiện đại, hình ảnh thơ độc đáo đã gợi lên trong ta nỗi buồn, sự cô đơn của một cái tôi trước cảnh vật. thiên nhiên bao la, rộng lớn và đặc biệt đó là tấm lòng tha thiết với quê hương, với đất nước. Đọc bài thơ giúp ta hiểu vì sao Xuân Diệu từng đánh giá “Tràng Giang là bài thơ hát về non sông đất nước, dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước”.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 15
Huy Cận là một trong những cây bút tiêu biểu của phong trào thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Hồn thơ Huy Cận luôn chất chứa một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn ngàn năm, nỗi buồn thân phận bơ vơ. , nhỏ bé trước cuộc đời đầy bất trắc. Từ đó, Huy Cận thường tìm đến những không gian dài ngút ngàn để tô đậm cảm giác cô đơn, rợn ngợp của con người nhưng “Tràng Giang” lại là một không gian lí tưởng để nhà thơ gửi gắm nỗi niềm của mình.
Đoạn thơ là hình ảnh một dòng sông đẹp mà buồn, cổ điển mà hiện đại khúc xạ qua trái tim Huy Cận. Một nhà thơ mất nước đang sống cô đơn giữa dòng đời chưa tìm được lối đi cho mình trong kiếp sống nô lệ.
Huy Cận là tác giả xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam, với giọng thơ độc đáo ông đã khẳng định được tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 – 1945. Ông quê ở Hương Sơn Hà Tĩnh. , trước cách mạng tháng 8 thơ ông mang nỗi buồn về kiếp người và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật. Với các tác phẩm tiêu biểu như “Lửa thiêng”, “Bài ca vũ trụ”, “Lời nguyện cầu”. Nhưng sau cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông trở nên lạc quan, được hun đúc từ cuộc sống chiến đấu và dựng nước của nhân dân lao động “trời sáng mỗi ngày”, “Đất nở hoa”, “bài thơ đời”… thiên nhiên Vẻ đẹp và nỗi sầu nhân thế là một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận được thể hiện khá rõ nét trong bài thơ Tràng Giang, đây là một trong những bài thơ hay và tiêu biểu của nhà thơ được viết vào mùa thu năm 1939 trong tập Lửa thiêng. được khơi nguồn cảm hứng khi Huy Cận đứng bên bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn ra sông nước mênh mông mà trong lòng cùng vợ xót xa, biết ơn kiếp người nhỏ bé, lênh đênh giữa dòng đời vô định. buồn và hoài nghi, bài thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa hiện đại đã ghi dấu ấn toàn diện, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của thơ mới.
Ngay từ đầu, khi mới đọc nhan đề “Tràng Giang”, ta đã bắt gặp một chất thơ cổ điển mà trang trọng. “Trường Giang” cũng là “Trường Giang” có nghĩa là sông dài. Nhưng nhà thơ không viết “Trường Giang” mà viết “Tràng Giang” tạo nên phép điệp ngữ, một tư tưởng rộng mở và từ đó gợi hình ảnh một dòng sông rộng nhưng cũng rất sâu. “Tràng Giang” là một từ Hán Việt cổ điển nên cũng kín đáo, gợi hình ảnh một dòng sông cổ kính, lâu đời. Do đó, sông Dương Tử không chỉ có chiều dài và chiều rộng địa lý mà còn có chiều sâu của thời gian lịch sử. Đó là dòng sông đã chảy từ xa xưa, đã lắng đọng vào lòng sâu hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hiến và dường như đã đi qua biết bao bài áng thiên cổ bất hủ.
“Hựu trường giang thiên duy nhất”
(Của minh bạch).
Tiếp theo chất cổ kính trang trọng trong nhan đề, chất cổ điển càng được tô đậm qua nhan đề tác phẩm.
“Soi gương trời rộng nhớ sông dài”.
Câu thơ từ quá khứ đã bao hàm trọn vẹn chủ đề của bài thơ, những hình ảnh trời rộng sông dài gợi ra những khoảng không gian khác nhau từ thấp đến cao, từ xa đến gần của một không gian vũ trụ bao la, rộng lớn. Hình ảnh này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài thơ.
“Sông dài trời rộng bên cô đơn”.
Nỗi buồn chất chứa nỗi nhớ, đong đầy trong cảnh vật nào cũng gợi, bâng khuâng là cảm giác bứt rứt, trống trải của con người khi đối diện với một không gian bao la rộng lớn, “nhớ” là niềm vui. nỗi nhớ của con người về một cái gì đó đã biến mất trong thời gian và không gian. Cả dòng thơ đã bộc lộ trực tiếp tình cảm, tâm trạng của con người, bộc lộ nỗi băn khoăn của hồn thơ Huy Cận. “Huệ Cẩn dường như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” (Xuân Diệu).
Chất cổ điển được nhà thơ thể hiện xuyên suốt bài thơ qua việc sử dụng những thi pháp thơ quen thuộc trong thơ cổ, như “con thuyền”, “dòng sông”, “cánh bèo”, “mặt nước”. Kết hợp với những hình ảnh tượng trưng thường thấy trong thơ cổ “Tràng giang, bến vắng, mây cao, núi bạc, khói hoàng hôn”. Đằng sau những hình ảnh hết sức bình dị ấy, ta thấy phảng phất nỗi buồn của một người đang chìm vào hư vô, khao khát một sự giải thoát cho tâm hồn.
Cảnh sông nước mênh mông, đẹp mà buồn, cảnh thiên nhiên ấy gợi lên nỗi nhớ mong của một con người không tìm được người đồng điệu trong cuộc đời, trong một thế giới mà nỗi buồn và sự cô đơn đã trở thành nỗi đau. thiên niên kỷ của cuộc sống con người.
“Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác,
Mênh mông không thuyền qua lại,
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Đoạn thơ miêu tả hình ảnh dòng sông lặng như tờ không một con đò, không một chiếc cầu qua lại chỉ có những hàng bèo trôi vô định. Đây cũng là hình ảnh ta thường gặp trong thơ ca cổ điển, hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh, không phương hướng gợi nên thân phận lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh của một kiếp người. Dòng sông mênh mông, không một chuyến đò ngang, không một cây cầu nối đôi bờ, gợi đôi bờ như hai thế giới hoàn toàn xa lạ song song, “lặng lẽ chạm vào bãi vàng”, không một chút xa lạ. thân mật, hòa hợp không thông cảm.
Dòng sông “Tràng Giang” phía dưới đẹp buồn nhưng phía trên có bầu trời thăm thẳm mang một vẻ đẹp rất cổ điển.
“Tầng mây cao đùn núi bạc,
Con chim nghiêng cánh soi nắng”.
Hai câu này làm ta nhớ đến câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc).
“Mặt đất mây, cổng trời xa”.
Trên nền không gian bao la, mây trôi thành từng đụn “mây cao đùn núi bạc”, rồi lên một cánh chim. “Chim nghiêng cánh nhờ bóng xa”.
Một con chim nhỏ dựa lưng vào đôi cánh của mặt trăng, khiến nó trở nên nhỏ bé đến đáng thương. Đúng là những cánh thơ lãng mạn, bởi nó không chỉ gợi sự nhỏ bé mà còn ấm cúng, lặng lẽ sà xuống chân trời như một tia nắng chiều nhỏ nhoi. Đặc biệt là cánh chim đó chúng ta đã thấy trong thơ cổ khá nhiều.
“Gió thổi đàn chim đi”
(Chiều nhớ nhà Bà Huyện Thanh Quan).
“Chim vừa về rừng tìm chỗ ngủ”.
(Chiều Hồ Chí Minh).
Tuy là một bài thơ mới lãng mạn nhưng “Tràng Giang” hội tụ những nét nghệ thuật đặc sắc, ghi đậm dấu ấn đường đi. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn dài khiến cho nỗi buồn làm chủ đạo của bài thơ như được kéo dài ra vô tận. Tổ chức tạo hình ảnh song hành “Thuyền về nước, nắng xuống trời, sông dài trời rộng, đôi bờ óng vàng”. Những hình ảnh này kết hợp với nhịp thơ 3/4 truyền thống gợi âm hưởng trôi chảy, xuôi dòng. Một giai điệu thơ bao la, xao xuyến giữa hồn thơ với sông núi đất nước. Hai sắc thái cổ điển còn được thể hiện qua việc sử dụng nghệ thuật đối lập tạo vẻ cân xứng, trang trọng, mở ra những chiều của không gian bao la, vô biên. Không chỉ vậy, ý nghĩa cổ điển còn được nhà thơ Huy Cận khai thác triệt để qua cách sử dụng từ ngữ, từ ngữ, hình ảnh mang đậm âm điệu cổ xưa. Rải rác khắp bài thơ là hệ thống một loạt từ láy “Tràng Giang, điệp khúc, song song, liêu xiêu, rùng rợn, lớp lớp”…. Tất cả đã tạo cho kiệt tác của Huy Cận một vẻ đẹp cổ điển rất riêng mang phong cách riêng của nhà thơ không thể trộn lẫn.
“Tràng Giang” được sáng tác trong khoảng thời gian 1930 – 1945 là một bài thơ mới lãng mạn nên màu sắc thơ bao trùm bài thơ chủ yếu là hiện đại.
Trước hết, tính hiện đại trong bài thơ thể hiện ở những hình ảnh, âm thanh rất đời thường mà chúng ta dễ dàng bắt gặp trong cuộc sống hàng ngày. Đây là những hình ảnh dung dị không hoa mỹ cầu kỳ mà mang vẻ đẹp giản dị, mộc mạc. Hình ảnh cành củi khô trôi bấp bênh, bấp bênh trên mặt nước lục bình trôi giạt giữa hàng hàng, nắng chiều hoàng hôn thưa thớt soi bóng, đây đó còn có tiếng vụn vặt của văn chương chợ chiều. Tất cả làm nên một bức tranh quê hương gần gũi, thân thuộc bởi nó như một bức tranh thu nhỏ của quê hương Việt Nam.
Nét hiện đại trong bài thơ “Tràng Giang” còn được thể hiện ở cái tôi táo bạo, táo bạo bộc lộ trực tiếp nỗi buồn riêng, đó cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên yêu nước. Không có cách nào đúng để đi vào thời điểm đó. Nỗi buồn man mác, bâng khuâng của cái tôi trữ tình ấy ẩn sâu trong từng chữ của cả bài thơ.
Mở đầu bài thơ ta đã bắt gặp một nỗi buồn khó tả về cảnh sông nước mênh mông, chộn rộn, vô tận.
“Sóng lăn tăn buồn thương
Con thuyền xuôi theo dòng nước động cơ song song
Thuyền về lại buồn
Củi khô cành nằm mấy dòng”
Ngay từ đầu bài thơ, bài thơ không đợi nói dòng sông mà nói buồn về một nỗi buồn vô tận bằng hình ảnh ẩn dụ “Sóng gợn sóng sầu”, như một nỗi buồn trùng điệp, trùng điệp khó dứt. con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời cô đơn, bấp bênh. Ở đây thuyền xuôi theo nước, hai vật vốn dĩ gắn liền với nhau, nhưng ở đây thuyền và nước chỉ song song với nhau chứ không gần nhau. Vì nước xuôi dòng trăm lối, thuyền trôi theo dòng nào, thuyền xuôi theo dòng nào rồi lại tách dòng. Câu thơ thứ ba nói về sự chia ly, chia xa “Đoàn thuyền buồn vì đi về nước”. Thuyền buồn vì phải trôi, nước buồn vì chẳng biết trôi về đâu. Câu cuối của đoạn này thể hiện sự tập trung vào một kiếp người nhỏ bé và lạc lõng “lạc mấy dòng trên cành khô đơn côi”. Khổ thơ đầu vẽ nên một không gian sông nước mênh mông, rời rạc qua những dòng thuyền chở củi gợn sóng. Theo đó, “điệp điểm buồn”, “sâu trăm bề”, không chỉ làm cho con thuyền buồn, cành buồn, người vợ xuôi dòng buồn, mà cái tôi trữ tình cũng trở nên buồn hơn.
Khổ thơ thứ hai tiếp nối mạch cảm xúc của khúc dạo đầu.
“Thơ trung úy còn nhỏ, gió chiều
Đầu tiếng làng Vân, chợ chiều,
Mặt trời mọc và lặn cuối cùng
Sông dài trời rộng bên cô đơn.
Nơi nhỏ thơ vắng vẻ hiu hiu gió hiu hiu, lại càng hiu quạnh, buồn như thể đời đã bỏ quên. Đến đây, đã có dấu hiệu của sự sống con người, nhưng chỉ là âm thanh mơ hồ của một buổi chợ chiều, của một làng quê xa xôi đã làm tăng thêm cảm giác bị lãng quên nơi đây. Hai dòng cuối càng khắc sâu thêm cảm giác lạc lõng, tranh đấu, không gian được mở ra ba chiều hết cỡ “năng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng” nhưng lại không ăn khớp với nhau. Ở hai dòng thơ này, nhà thơ đã lồng vào nhau những yếu tố không buồn để tạo nên một khung cảnh buồn, bởi giữa không gian choáng ngợp ấy, nhà thơ càng cảm thấy mình nhỏ bé. Cái mênh mông và tĩnh mịch đáng sợ như muốn nuốt chửng con người, nên đã buồn lại càng buồn hơn.
Tiếp nối sự nhập nhoạng của nỗi cô đơn do trời cao vô tận mang đến, những câu thơ sau nhẹ tênh như một tiếng thở dài não nuột, của cái tôi trước tạo hóa hờ hững. xấu hổ. Nỗi sầu ấy sẽ tiếp tục ám ảnh, khi cái tôi trữ tình đối diện với một thiên nhiên gần như nhắm mắt làm ngơ trước bao nhu cầu sẻ chia của con người.
“Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác,
Mênh mông không thuyền qua lại,
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Bây giờ, trên sông chỉ còn một hàng bèo, từng hàng bèo nối đuôi nhau, không một con đò ngang, không một chiếc cầu bắc, không một công trình nào có dấu ấn của con người, chỉ lặng lẽ hòa cùng thiên nhiên. Nỗi buồn trải dài theo cảnh trải dài đến bờ xanh, bãi Sậy, nỗi buồn tràn ngập tâm hồn nhà thơ không gì tả xiết.
Kết thúc bài thơ cũng là đỉnh điểm của nỗi buồn, nỗi buồn khôn tả quyện lại thành nỗi nhớ thường trực. Đó cũng là một tâm trạng hiện đại, tươi mới.
“Trái tim của đất nước rung chuyển với nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
“Lòng quê rưng rưng” là nỗi niềm nhớ quê hương bắt nguồn từ dòng sông “Tràng giang”, thiên nhiên không chỉ là nơi gửi gắm nỗi buồn mà còn là nơi gửi gắm tình yêu quê hương. Yêu thiên nhiên cũng là một biểu hiện của tình yêu đất nước, câu thơ cuối vừa phủ định “không khói hoàng hôn” vừa khẳng định “cũng nhớ nhà”. Thể hiện trong bài “Hoàng Hạc Lâu” cũng kết thúc bằng hai câu kết.
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên dòng sông, đừng sống để làm buồn ai.”
Thơ xưa cần nhắc để nhớ, nhưng Huy Cận không cần nhắc đã bật khóc. Điều đó chứng tỏ nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, da diết trong tâm trí nhà thơ.
“Tràng Giang”, thực sự là một kiệt tác của phong trào thơ mới, bài thơ vừa mang màu sắc cổ điển vừa phảng phất phong vị hiện đại đem đến cho người đọc những cảm nhận, cảm nhận vô cùng mới mẻ. không thể nào quên. Bài thơ đúng như lời Huy Cận “Tràng Giang” là một bài thơ tình, tình gặp cảnh là bài thơ về tâm hồn.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 16
Nếu nhắc đến những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới thì phải nhắc đến Huy Cận, thơ ông có chất sầu, cảm xúc của tác giả trước thời đại, đặc biệt là bài thơ Tràng Giang mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
Mở đầu bài thơ đó là cảnh con người đứng trước không gian rộng lớn của thiên nhiên, sự cô đơn, lẻ loi và nỗi buồn của nhân vật trữ tình:
Sóng lăn tăn gửi tin buồn
Thuyền xuôi mái song
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy dòng
“Tràng Giang” được tác giả sử dụng trong khổ thơ là một từ Hán Việt có nghĩa là sông dài, trên sông ấy sóng không dữ dội mà êm đềm, chỉ lăn tăn gợn nhẹ, dòng sông như mang theo nỗi buồn. , những con sóng nhỏ cứ xô vào nhau đến tận chân trời, mỗi con sóng như chất chứa nỗi niềm của tác giả.
Trên dòng sông dài bất tận ấy, tác giả bắt gặp hình ảnh con thuyền “xuôi mái song”, con thuyền không buồn mà bỏ mặc trôi theo dòng nước. “Thuyền về nước” hình ảnh có phần đối lập, thuyền và nước vốn dĩ gắn bó với nhau nhưng thực chất, từng con sóng chỉ theo thuyền trong chốc lát rồi vội vã chia xa. Ở dòng thứ ba của khổ thơ đầu, cảnh chia ly còn là ẩn dụ cho hình ảnh con người.
Ở dòng cuối bài thơ “Củi mấy dòng, cành khô lạc”, tác giả dùng đảo ngữ “củi” đặt ở đầu câu để nhấn mạnh cành khô nhỏ bồng bềnh, bấp bênh giữa dòng đời vô định ấy. là số phận của các nhà thơ đương thời.
Khép lại khổ 1 là nỗi cô đơn, nỗi buồn của con người nhưng khổ 2 tâm trạng con người cũng chẳng khá hơn:
Bài hát nhỏ của gió cô đơn
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm
Song Long trời rộng bến vắng
Trong không gian rộng lớn của dòng sông thấp thoáng những cồn nhỏ rải rác, thưa thớt, gió thổi man mác sầu khiến cho khung cảnh trở nên trống trải, buồn tẻ. Tác giả như muốn tìm lại hình ảnh mọi người cố lắng nghe tiếng chợ chiều đâu đó mà không có nên nỗi buồn càng nhân lên gấp bội.
Ở hai câu thơ cuối, tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, đó là hình ảnh giữa mặt trời lặn và trời lên, giữa sông dài và trời rộng để thể hiện sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la.
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác?
Mênh mông không một con đò qua
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Hình ảnh bèo đã được nhiều tác giả sử dụng thường để nói về số phận chìm nổi, bấp bênh của con người và ở Tràng Giang chúng lại xuất hiện để nói về kiếp người trôi nổi trong xã hội. Từ không được dùng liên tiếp là không thuyền, không cầu, như muốn nói rằng cuộc sống quanh đây thật ảm đạm, chỉ có những bãi cát vàng trải dài đến tận chân trời.
Mây cao đùn núi bạc
Cánh chim nhỏ: bóng chiều xa
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tác giả rất yêu thích thơ Đường và ở khổ thơ cuối người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh “mây” và “núi bạc” vừa cổ điển vừa thân thuộc. Con chim nhỏ lẻ loi giữa đất trời bao la, nhìn bầu trời tác giả nhớ về quê hương, nỗi nhớ quê hương da diết nhưng quê hương nay không còn nữa. Ngày xưa Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà, nhưng nhà thơ Huy Cận “hoài hoàng hôn cũng nhớ nhà”, nỗi nhớ trong lòng nhà thơ như chực chờ, không một chất xúc tác nào. anh nhớ ra. quê hương gian khổ.
Mặc dù bài thơ Tràng Giang mang nỗi buồn, sự cô đơn, lẻ loi nhưng vẫn thể hiện được tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của nhà thơ. Những hình ảnh quen thuộc như dòng sông, con đò, bến nước… là những khung cảnh bình dị, quen thuộc được dùng để bộc lộ tình cảm, cảm xúc, qua đó bộc lộ tình yêu quê hương thầm kín của chính tác giả. giả mạo.
Phân Tích Tràng Giang – Văn Mẫu 17
Trước Cách mạng Tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn – nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ thơ mới. Bài thơ Tràng Giang (1939 – trích trong tập Lửa thiêng) thể hiện nỗi niềm của nhà thơ trước cảnh trời rộng sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người giữa quê hương. Bài thơ cũng thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ
Tràng Giang có nghĩa là sông dài, chữ “trang” còn được đọc là trường. Nhưng từ dòng sông với âm vang bao la của nó lại gợi ra cảnh bao la, khoáng đạt hơn (đại dương bao la). Tác giả sử dụng từ Hán Việt tạo nên vẻ cổ kính, trường tồn của dòng sông. Bài thơ mở đầu bằng cảnh sông nước:
Sóng lăn tăn gửi tin buồn
Thuyền xuôi mái song
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường.
Câu thơ đầu tả cảnh sông nước mênh mông, gợn sóng nhấp nhô đến tận chân trời tạo cảm giác tĩnh lặng trong không gian quạnh hiu như chứa đựng nỗi buồn: buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp tỏa theo dòng nước, đi về trăm lối: sầu trăm lối. Cảnh sông nước trong bài thơ mang đậm màu sắc cổ kính;
Cây cổ thụ có tán tròn.
Trắng xóa dải đất bằng phẳng và yên tĩnh.
(Con thuyền đi)
Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành khô trôi giữa sông: Cành khô lạc mấy dòng. Từ trong rừng sâu, cành củi, qua bao sông suối trôi dạt về đây, bập bềnh giữa sông nước bao la, gợi nhớ kiếp người lạc lõng, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ bé, lạc lõng bị cuốn theo những dòng đời.
Khổ thơ gợi lên một khung cảnh không gian sông nước bao la với những đường nét: song song, trùng điệp, nhưng lại: sầu trăm phương, lạc mấy dòng nên không hẹn hội tụ, gặp gỡ mà chia lìa, biệt ly. Thủ pháp đối lập hình ảnh dòng sông rộng lớn với cảnh củi khô và con thuyền nhỏ càng làm nổi bật cảnh mênh mông, vô tận của dòng sông và thân phận cô đơn, nhỏ bé của con người.
Giọng điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc lõng trong cuộc đời cũ. Khổ thơ thứ hai nối tiếp khổ thơ thứ nhất nhưng không gian được mở rộng và đẩy lên cao hơn.
Một bài thơ nhỏ, một cơn gió sầu
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều,
Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Cồn nhỏ trơ trọi giữa sông, thêm ngọn gió lẻ loi càng làm cho cảnh thêm hoang vắng, hiu quạnh, ẩn khuất. Nước lũ thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sông, chỉ nhô lên vài ngọn cỏ gợi nhớ những số phận bị dòng đời nhấn chìm.
Không gian mở rộng ra bến bờ: cảnh chợ chiều đã thăm thẳm chốn vắng vẻ xa xăm.. Cảnh chợ chiều gợi sự sống, quê hương nhưng đó chỉ là tiếng thân xác rồi tan biến trong cảnh vật bao la . sự im lặng của dòng sông. Sông và. Nhà thơ dường như bị tách rời khỏi cuộc sống nên đứng trong khung cảnh ấy, lòng người càng thêm nhớ nhung cuộc sống của quê hương.
Sự xuất hiện của bầu trời cũng làm tăng thêm cảm giác lạc lõng: Mặt trời xuống bầu trời và nhô lên bầu trời sâu thẳm. Bài thơ giàu hình ảnh, miêu tả không gian bằng hình khối, đường nét, màu sắc: từng tia nắng từ trên cao rọi xuống tạo nên một khoảng trời thăm thẳm, trời thăm thẳm như trên đỉnh tháp. Cách dùng từ thăm thẳm gợi không gian của bầu trời như mở rộng ra, đẩy cao hơn, sâu hơn tạo nên không gian thăm thẳm, vô tận của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Dòng sông, bãi biển, bầu trời tất cả rời rạc và đều đượm nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì vắng bóng sự sống nên mong được trở lại với cuộc đời. Nhưng càng về sau cảnh vật càng hiện ra lạc lõng, dửng dưng:
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác?
Mênh mông không một con đò qua
Không đòi hỏi một chút thân mật
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Vạn vật bên nhau: hàng lũa nối nhau, bờ xanh gặp bãi vàng, nhưng lại tạo nên một thế giới riêng biệt, không liên quan. Trong khung cảnh ấy, hồn thơ muốn tìm lại dấu vết của sự sống, nhưng mọi thứ đều rộng lớn và xa xăm, được nhấn mạnh bởi hai phép phủ định:
Mênh mông không bước ngang
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật.
Không một con thuyền, không một cây cầu, không một bóng người hay bất cứ thứ gì gợi con người gặp gỡ, giao lưu. Chỉ có mặt nước bao la, tĩnh lặng.
Ở ngã ba của sóng ở tất cả các phía,
Gà lạ gáy bên đê lúc nửa đêm
(Tôi đang về nhà)
Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì vắng bóng sự sống. Nhà thơ đứng giữa quê hương mà thấy bơ vơ, cô đơn nên khao khát được gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương:
Thuyền không nối liền đây đó
Mãi chờ một cánh buồm
(Hòn đảo)
Bài thơ khép lại bằng cảnh hoàng hôn lộng lẫy phía chân trời xa:
Mây cao đùn núi bạc,
Con chim cánh nhỏ; bóng tối.
Lòng đất nước dâng đầy nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh mở ra với hình ảnh những ngọn núi bạc được tạo nên bởi những đám mây trắng lấp lánh trong nắng. Tác giả nhận xét: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những nụ bông trắng nở trên bầu trời. Ánh chiều trước khi tàn trước nhan sắc” Một vẻ đẹp tuyệt vời, trong sáng, hùng vĩ.
Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ được dịch từ thơ Đường: “Mây che mặt đất, cửa ngõ xa” (Đỗ Phủ) nhưng mang một vẻ đẹp rạng ngời hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh thêm sống động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé và mơ hồ. Cánh chim nhỏ bé như bị nắng chiều ép xuống, chỉ cần nghiêng cánh lá chiều thôi cũng khiến không gian như có khối lượng, sức nặng và thiên nhiên như đang trĩu nặng nỗi buồn của nhà thơ. Khung cảnh xa vắng ấy lại càng gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết:
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Làn sóng nỗi nhớ quê hương của nhà thơ đã tỏa ra cả làn sóng nước. Dòng nước đồng cảm đã mang tình quê bao la đến với sóng. Đất nước giao cảm đã mang tình đất nước bao la đi khắp nơi. Câu cuối mượn tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:
Quê hương trong bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng buồn ai.
(Tháp Hoàng Hạc)
Người xưa nhìn sóng nhớ nhà, còn Huy Cận chẳng cần sóng vẫn nhớ quê hương. Vì tình yêu ấy luôn ở trong tim. Đó là nguyên nhân chính của nỗi buồn xuyên suốt bài thơ. Một người buồn nhớ quê hương khi ở ngay giữa quê hương mình thấy thật bơ vơ và đáng thương! Bài thơ kết thúc bằng cảnh hoàng hôn trên sông và mở ra một tình yêu quê hương đất nước bao la.
Tóm lại, nỗi buồn sông, mây trời trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gửi gắm trong đó tình yêu quê hương tha thiết và lòng kính trọng tiếng Việt. Vì vậy, Xuân Diệu đã đánh giá: “Tràng Giang là bài thơ hát những dòng sông đất nước, là dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước”.
Bài thơ nói lên nỗi buồn chung của một thời đại trong Thơ Mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ vẻ đẹp của thiên nhiên thiếu tiếp xúc và thiếu tình người chứ không phải nỗi buồn vì hoàn cảnh ngột ngạt trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong cách cổ điển trong hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc trưng của thơ hiện đại trong không gian màu sắc, ngôn từ, tứ tuyệt.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 18
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh về thời gian thì Huy Cận là nhà thơ của nỗi ám ảnh về không gian thì Huy Cận đã gom những nỗi buồn rải rác để góp nhặt những vần thơ sầu. nhưng Tràng Giang dường như là vần thơ tha thiết nhất của cái tôi Huy Cận với nỗi sầu cổ kính.
“Sóng lăn tăn buồn thương
Thuyền xuôi mái song
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường”.
Ngay từ những nốt nhạc đầu tiên, điệp điệp buồn đã chất chứa nỗi khắc khoải, đau xót và ám ảnh trước cái mênh mông bát ngát của sông nước mênh mông. Ở câu thơ mở đầu, ngay việc dùng từ Hán Việt “Tràng Giang” đã cho người đọc cảm nhận được nỗi sầu muôn thuở trong thơ Huy Cận, khi ta nhận thấy câu thơ phảng phất nhạc điệu và tứ tuyệt của thi nhân. Đỗ Phủ:
“Vô biên, thiền định và hủy diệt”
Trường Giang Goon Go bất tận”
Đó là nỗi buồn của con người mới cô đơn, bế tắc, đổ vỡ. “Củi cành khô nằm mấy dòng”. Một bài thơ ngắn nhưng gói ghém biết bao sức nặng và sức gợi, những khoảng trống không lời mà dạt dào cảm xúc. Nó vừa gợi nỗi cô đơn sâu thẳm, vừa gợi sự héo úa héo úa, đồng thời mang đến cảm giác vô định, bế tắc giữa sóng gió của thời cuộc. Đó có lẽ không chỉ là tâm trạng của riêng Huy Cận, mà còn là tâm trạng của nhiều cái tôi thơ Mới khác, khi Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tôi là một con nai bị mắc vào lưới
Tôi không biết đi đâu và đứng trong bóng tối”.
Đồng thời, điểm mới lạ của Huy Cận ở câu thơ cuối này là ông đã sử dụng chất liệu thô mộc của cuộc sống chứ không phải là điển cố kinh điển trong văn học cổ điển, ông đã đưa vào cuộc sống những hỗn độn và sống động. và sự thô mộc của cuộc sống đi vào thơ một cách tự nhiên.
Tiếp nối mạch cảm xúc ở khổ thơ đầu, khổ thơ thứ hai tiếp tục mở ra một không gian thê lương hơn, nhưng không phải của dòng sông mà là của cuộc đời:
“Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều”
Đặc biệt là hai câu thơ: “Nắng xuống trời thăm thẳm/ Sông dài trời rộng hiu quạnh”. Cao chót vót thăm thẳm là một sáng tạo tài hoa của Huy Cận, nó vừa gợi chiều sâu vừa mở ra một không gian bao la thăm thẳm, cặp tiểu đối “lên/xuống” khiến câu thơ tạo cảm giác. sự ngột ngạt, tù đọng, bế tắc đến ngột ngạt trước không gian diệu vợi càng làm tăng hiệu quả biểu đạt.
Cuộc sống heo hút, cảnh vật hiu quạnh, hoang vắng, không gian rộng lớn nên một chút thân thiết, một chút kết nối cũng không có:
“Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật nào
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”
Hình ảnh cây cầu luôn gợi lên sự kết nối, là phương tiện để kết nối, nhưng ở đây, không có cây cầu nào gợi lên một chút gì thân thiết, phải chăng là sự ngắt quãng vạn vật? điều tạo nên cảm giác buồn vô hạn trong Tràng Giang của Huy Cận mà chính Trần Đình Sử đã từng nhận xét.
Đến khổ thơ cuối, cả không gian hồn thơ của Huy Cận dường như trở nên thê lương, thấm thía hơn bao giờ hết:
“Tầng mây cao đùn núi bạc”
Cánh chim nhỏ trong bóng chiều
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Hình ảnh núi bạc, cánh chim rơi trong buổi hoàng hôn tự nó đã nhuốm màu buồn. Câu thơ phảng phất hương vị thơ cổ Thôi Hiệu:
“Nhật mộ quan chi địa nhị.
Yên tam ức thượng sử”.
Từ đó có thể thấy hồn thơ Đường đã ăn sâu vào thơ Huy Cận. Nhưng Huy Cận tập cổ mà không cổ, thuở xưa Thôi Hiệu buồn vì cảnh thần tiên mịt mờ, quê hương đã xa, khói sóng trên sông gợi cảnh tăm tối mà buồn. Bây giờ Huy Cận buồn trước không gian vắng vẻ, tiếng gợn sóng của Tràng Giang gợi nhớ quê hương như nguồn an ủi ấm áp. Như vậy có thể thấy rõ ở đây, tấm lòng của Huy Cận với quê hương, cái tôi cô đơn, bơ vơ khi đứng trên quê hương mà vẫn thấy thiếu quê hương.
Tràng Giang là một khúc buồn, nỗi buồn thấm vào từng thớ thơ, len lỏi vào sâu trong tâm hồn người đọc. Đó có lẽ cũng là nỗi niềm của cái tôi thơ thế hệ mới, đồng thời là cái tôi của những người con dân tộc trong thời loạn lạc, bế tắc, mượn những dòng thơ để gửi gắm tiếng lòng khát khao vang vọng.
Phân Tích Tràng Giang – Kiểu 19
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới, thơ ông có bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội và triết lí. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu thẳm, vô tận, huyễn hoặc và ảm đạm; Nỗi buồn của “đêm mưa”, của “lữ khách”, nỗi buồn của “quán đèo cao”, “trời rộng sông dài”. Tràng giang là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau in trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ mang phong cách Đường rõ nét. Đây là bài thơ lấy cảm hứng từ cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng. Huy Cận từng tâm sự: Tôi có một sở thích là chiều chủ nhật nào tôi cũng thường ra khu Chèm để thưởng ngoạn phong cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Cảnh sông nước đẹp, gợi cho em nhiều cảm xúc. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ so sánh với sông Hồng đầy gợi cảm mà còn gửi gắm những cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương.
Ca từ “Chia tay trời rộng nhớ sông dài” tóm gọn chủ đề của cả bài thơ là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa đất trời bao la, rộng lớn và bao la. Đoạn thơ toát lên vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, đó cũng là một nét đặc trưng của thơ Huy Cận.
Bài thơ mở đầu bằng cảnh sông nước, khổ thơ đầu gợi cho người đọc hình ảnh một dòng sông thăm thẳm chất chứa biết bao nỗi buồn.
Sóng lăn tăn gửi tin buồn,
Con thuyền xuôi theo dòng nước song song,
Thuyền về nước sầu trăm phương;
Củi cành khô nằm mấy đường.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ thể hiện khá rõ ngay từ bốn dòng đầu này. Với hàng loạt từ buồn “buồn”, “buồn trăm lối”, “lạc mấy dòng” kết hợp với từ “điệp điệp”, “song hành” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái thơ Đường Thi dường như đã lột tả được đầy đủ khí chất và nỗi buồn vô biên, vô tận của nhà thơ. Trên dòng sông gợi sóng ấy là hình ảnh “con thuyền trên mái” lênh đênh giữa cái tĩnh và cái động, nhưng sao người đọc vẫn cảm nhận được sự tĩnh lặng, bao la của thiên nhiên, của một dòng “tràng giang” dài? và nó bao la và vô tận biết bao. Dòng sông dài vô tận, vô tận và lòng người cũng chất chứa một nỗi buồn khó tả. Hình ảnh “thuyền” và “nước” vốn dĩ đi đôi với nhau, vậy mà Huy Cận lại để chúng xa nhau đến thế, “thuyền về nước” sao nghe bùi ngùi đến thế. Chính vì thế nó gợi lên trong con người nỗi niềm “trăm bề trăm bề”. Số từ “trăm” kết hợp với chỉ số “bao nhiêu” đã thổi vào câu thơ một nỗi buồn miên man, không điểm dừng.
Nỗi buồn ấy được dồn vào câu thơ cuối “ cành khô mấy dòng lạc lõng”, Huy Cận đã khéo léo sử dụng phép đảo ngữ kết hợp với từ ngữ chọn lọc, thể hiện sự cô đơn, lạc lõng trước cảnh vật bao la. , rộng. “Một” gợi sự lẻ loi, lẻ loi, “cành khô: gợi sức sống khô héo, cạn kiệt, chỉ còn lại thân xác khô héo trơ trụi, “lạc” mang một nỗi buồn vô tri, bồng bềnh, trống trải định hướng trên “vài dòng” thể hiện một dòng chảy hư vô. Hình ảnh cành củi khô trôi vô tận khiến người đọc cảm thấy trống vắng, cô đơn lạ lùng, cho thấy kiếp người dài đằng đẵng, trôi giạt giữa dòng đời xô bồ, xô bồ.
Sang khổ thơ thứ hai, nỗi cô đơn dường như muốn nhân lên gấp đôi.
Ngọn gió nhỏ, du dương, buồn bã,
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều.
Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm;
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Hai câu thơ đầu phản ánh một khung cảnh đìu hiu, buồn bã của một làng quê nghèo, thiếu sức sống. Hình ảnh “cồn nhỏ” với tiếng gió thổi “đìu hiu” dường như phủ lên mình một nỗi buồn mặc định. Đến nỗi nhà thơ phải đặt ra câu hỏi tại sao không nghe thấy cả tiếng ồn ào của buổi chợ chiều hay chợ ấy cũng buồn và cô đơn như ở đây. Chữ “đâu” hiện lên thê lương, không điểm tựa để bấu víu. “Sông dài trời rộng bến vắng”, khung cảnh hiện ra qua câu thơ của Huy Cận thật hoang vu, tiêu điều, nơi bến không một bóng người qua lại, không một tiếng cỏ. và cây cối. hay tiếng thở của người chung quanh, chỉ có đất trời dài rộng, lẻ loi một mình. Hai câu thơ cuối tác giả đã mượn “trời”, “sông” để diễn tả sự bao la vô tận của đất trời, của lòng người. Nhà thơ không dùng bầu trời “cao” mà dùng bầu trời “sâu” để đo độ sâu, đó là một nét tinh tế và độc đáo trong thơ Huy. Câu cuối của đoạn văn như nói lên tất cả, bộc lộ hết nỗi buồn sâu thẳm không biết tâm sự cùng ai, nhà thơ đành phải nói thẳng ra tiếng “biệt tích”.
Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm hơi ấm của đất trời bao la, nhưng dường như khung cảnh thiên nhiên không như con người mong đợi.
Em trôi về đâu, nối tiếp hàng;
Mênh mông không một chuyến đò qua.
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Đọc khổ thơ thứ 3, người đọc cảm nhận được sự chuyển mình, vận động của thiên nhiên, không còn buồn bã, hoang mang như khổ một và khổ hai. Từ “cống” đã diễn tả một cách tinh tế sự chuyển mình. Tuy gắn liền với hình ảnh “bèo” nhưng “bèo” vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không nơi bấu víu, cứ lặng lẽ trôi “đâu”, chẳng biết trôi về đâu. Đi đâu, không biết còn bao lâu nữa. Mặt nước mênh mông không một bóng thuyền. Tác giả chỉ đợi một chuyến phà để thấy rằng cuộc sống tồn tại, nhưng dường như điều đó là không thể.
Đến khổ thơ cuối, cảm xúc và cách hành văn của tác giả được đẩy lên cao trào, nét chấm phá được sử dụng rất độc đáo.
Mây cao đùn núi bạc…
Cánh chim nhỏ: bóng hoàng hôn.
Lòng đất nước dâng đầy nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sự đột phá trong hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” như trong thơ Đường càng khắc sâu nỗi cô đơn, buồn tủi. Hình ảnh “chim tung cánh” và “bóng chiều” là hình dung của tác giả về cái vô hình. Không thấy bóng chiều nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả, người ta có thể hình dung được nắng chiều đang dần buông xuống. Mây ở đây chồng chất lên nhau, óng ánh dưới nắng chiều khiến cả một vùng trời đẹp rực rỡ. Giữa khung cảnh đó, một chú chim nhỏ xuất hiện. Cánh chim bay giữa mây cao thật đẹp và hùng vĩ, như làm nổi bật sự nhỏ bé của nó. Nó cô đơn giữa khoảng trời bao la, như hồn thơ bơ vơ giữa dòng đời.
Ở hai câu thơ cuối, nỗi nhớ da diết được tác giả thể hiện rất rõ ràng, tất cả những điều đó nhà thơ không biết gửi gắm vào đâu mà chỉ biết chất chứa trong lòng. Hai từ “bâng khuâng” gợi lên nỗi nhớ da diết của nhà thơ khi đứng trước khung cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương của nhà thơ khi đứng trước cảnh sông nước rợn ngợp. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không có yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp nhưng khung cảnh ấy vẫn gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ quê cha da diết. Câu thơ cuối dường như đã bộc lộ được những tâm tư, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm xuyên suốt bài thơ. Trong tim Huy Cận luôn có một tình yêu quê sâu nặng, một nỗi nhớ quê da diết.
Tràng giang của Huy Cận là một bài thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa hiện đại. Bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên u uất, hiu quạnh. Qua đó khắc họa tâm trạng lẻ loi, lẻ loi của con người và một tình yêu quê hương, mong quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận. Bằng thể thơ mang phong cách thơ Đường, kết cấu mạch lạc và khả năng ngôn ngữ sáng tạo, hình ảnh tác giả, bài thơ hiện lên như một bản giao hưởng trong đó các nốt nhạc hòa quyện với nhau. câu hát yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết: Tràng giang là bài thơ đất nước nên dọn đường cho tình yêu đất nước.
Bài thơ “Tràng Giang” là một thi phẩm đặc sắc trong đời thơ Huy Cận. Bài thơ là sự kết hợp giữa phong cách hiện thực và phong cách cổ điển, khắc họa một bức tranh thiên nhiên đượm buồn, qua đó bộc lộ nỗi cô đơn, lẻ loi của con người và một tình yêu quê hương da diết. , mong nhớ quê hương chân thành và sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận đã để lại nhiều cảm xúc và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 20
Hoài Thanh đã có một nhận xét về các nhà thơ mới năm 1930: “Tôi cùng Thế Lữ trốn vào tiên cảnh, tôi phiêu bồng cùng Lưu Trọng Lư, tôi cuồng si với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, tôi đắm say với Xuân Diệu ơi. Nhưng động tiên đã đóng, tình không bền, điên rồi tỉnh, đắm say rồi vẫn bơ vơ. Tôi bùi ngùi trở về hồn tôi với Huy Cận”. Mỗi nhà thơ có một phong cách riêng tạo nên nét độc đáo riêng. Huy Cận là nhà thơ xuất sắc với những ca từ chan chứa nỗi buồn nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ xuất sắc và thể hiện rõ nhất nỗi niềm nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ.
Huy Cận là một trong những nhà thơ mới giai đoạn 1930-1945. Nếu Xuân Diệu đắm say trong tình yêu thì Huy Cận chìm đắm trong nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là bài thơ tiêu biểu và đặc sắc nhất được trích trong tập “Lửa thiêng” (1940). Huy Cận sáng tác bài thơ khi đứng ở bờ nam bến Chàm của sông Hồng nhìn cảnh thiên nhiên sông nước mà suy ngẫm về cuộc đời mà “tức cảnh sinh tình”. Đoạn thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như nỗi buồn con người của tác giả.
Ngay từ đầu thơ Huy Cận đã đưa ta đến một vẻ đẹp cổ điển ít ai có được mà chỉ khi đến với Hay Cận ta mới cảm nhận được. Đó là cách đặt tên cho nhan đề bài thơ, “Tràng Giang” là sông lớn, sông dài. Nhưng tại sao ở đây tác giả không dùng “Trường Giang” mà lại là “Tràng Giang”? “Tràng Giang” gieo vần “ang” tạo nên âm hưởng vang xa, đồng thời cũng thể hiện một nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. “Sống trời rộng nhớ sông dài” lời tựa cũng đã mở ra trước mắt ta một không gian rộng lớn “trời rộng sông dài”, một nỗi buồn thăm thẳm “xót xa”.
“Sóng lăn tăn buồn thương
Thuyền xuôi mái song
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường”.
Đến với khổ thơ đầu, ta bắt gặp những hình ảnh cổ điển, chỉ có trong thơ cổ: “long giang”, “con thuyền”, “cành khô”… Mở ra cho họ. Ta có không gian rộng lớn, “điệp điệp” gợi không gian theo chiều rộng, “song” gợi không gian theo chiều dài. Một không gian bao la, nhưng cũng tĩnh lặng đến lạ lùng. Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn “điệp” một nỗi buồn trải dài, khiến hình ảnh con thuyền cũng lặng đi giữa dòng nước “song song”. “Thuyền” và “nước” là hai hình ảnh quen thuộc trong thơ ca, ngoài đời nó cũng là hai sự vật không thể tách rời nhau, vậy mà ở đây tác giả lại cho ta thấy sự tách biệt giữa hai điều đó. thuyền và nước: “thuyền về” và “nước về” gọi sự chia ly, chia ly dửng dưng. Tâm trạng của nhà thơ được thể hiện rõ nét nhất ở câu thơ cuối: “Cành khô lạc mấy dòng”. “Củi” là một hình ảnh nhỏ bé, mong manh, lại bồng bềnh bập bềnh giữa không gian rộng lớn của sông nước, không biết sẽ trôi dạt về đâu. “Củi” vốn đã nhỏ nay càng nhỏ hơn khi kết hợp với số từ “một”, tác giả dường như muốn nhấn mạnh thân phận nhỏ bé của chính mình lênh đênh giữa cuộc đời. Một nỗi buồn lẻ loi về thời cuộc.
Nỗi buồn của nhà thơ càng tăng thêm, được đẩy lên cao trào khi đến khổ thơ thứ hai:
“Thơ nhỏ lẻ loi trong gió
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm
Song Long trời rộng bến vắng”.
Bức tranh thiên nhiên sông nước như có thêm chút sức sống khi có thêm những “cồn nhỏ”. Những gò đất nổi lên giữa sông chỉ còn “thơ” thưa thớt, gợi lên sự đơn sơ, hoang vắng, “cô đơn” khi những cơn gió thoảng qua. Những cơn gió không ồn ào mà chỉ “thơ thẩn” khiến nỗi buồn của nhà thơ như được nhân lên gấp bội khi đứng trước một không gian hoang vắng.
Chợt có tiếng “chợ chiều”. “Chợ” là nơi mà khi đến đó chúng ta mới biết cuộc sống ở đây có đủ đầy, tấp nập hay không. “Đâu” cho ta một cảm giác mơ hồ không biết có âm thanh đó hay không, tác giả chỉ được nghe, cảm nhận được chứ không thấy được. Âm thanh cũng mờ ảo, vừa thực vừa giả. Dường như tiếng đàn xuất hiện làm con người vui hơn nhưng lại khiến tác giả thêm lẻ loi, cô đơn trên chính quê hương của mình.
“Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm
Song Long trời rộng bến vắng”
Nỗi buồn không chỉ nhuốm màu không gian mà còn trải dài theo thời gian vô tận. Không gian được mở ra nhiều chiều, vừa cao, vừa sâu, vừa rộng…” Nắng xuống” và “trời lên” tạo nên sự ngăn cách, chia cắt theo hai hướng ngược nhau “lên” và “xuống”. Đây là cảm giác mà chỉ khi đến với con người hiện đại, chúng ta mới cảm nhận được. Không gian không chỉ được mở rộng về chiều rộng, chiều cao mà còn cả về chiều sâu. Mặt trời càng lặn, bầu trời càng cao, đổ bóng xuống lòng sông sâu “chót vót”. Tác giả đã sử dụng một từ rất đặc biệt, không phải “chót vót” mà là “sâu chót vót” để vừa tả độ cao, vừa cảm nhận được nó. Con người trở nên cô đơn, lẻ loi trước vũ trụ bao la, vô tận… “Sông dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, tráng lệ thì con người càng trở nên nhỏ bé với hình ảnh “bến lẻ loi” – bến đò nhỏ bé và cô đơn. Mọi người cảm thấy nhỏ bé hơn bao giờ hết.
“Bạn trôi dạt từ hàng nào đến hàng nào?
Mênh mông không một con đò qua
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”
Đến đây, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh bèo gợi lên sự chia ly, chia xa, những cánh bèo trôi nổi “nối hàng” không biết trôi dạt về đâu. Đây cũng là số phận của những mảnh đời bé nhỏ, đơn độc với cuộc sống bấp bênh. Giữa không gian bao la “dị thường” nhà thơ cố tìm một niềm vui, nhưng “không có con đò nào qua” mà không có bóng dáng của kiếp người. “Không đòi chút tri kỷ” không có sự sẻ chia của tình người, tình đời. Chữ “không” dường như càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, buồn bã, chỉ còn “bờ xanh gặp bãi vàng” một mình, nhà thơ trơ trọi với thiên nhiên hiu quạnh. Một lần nữa không gian bị đẩy đến tận cùng thế giới. hoang vắng, cô độc.
Nhà thơ mở rộng tầm nhìn, không còn không gian ở tầm thấp mà được nhìn với tầm cao xa:
“Tầng mây cao đùn núi bạc
Cánh chim nhỏ: bóng chiều xa
Lòng đất nước dâng đầy nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Chỉ với bốn câu thơ cuối, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh cổ điển với hình ảnh ngọn núi xa xa, mây bay là những “lớp áo” điệu đà. Không phải đàn chim mà chỉ có một chú chim nhỏ lạc đàn “nghiêng cánh” dưới “bóng chiều”. Con chim ấy cô đơn, lạc lõng, nỗi buồn dường như càng đè nặng đôi cánh giữa bầu trời bao la. Thiên nhiên trong khổ thơ được vẽ nên hùng vĩ, tráng lệ khác hẳn ở các khổ thơ trước cô đơn, vắng lặng.
“Lòng quê quay cuồng mặt nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Cái “lòng quê” hay tình yêu thiên nhiên đất nước mà nhà thơ muốn gửi gắm, nó cuộn lên “gợn sóng” như những đợt sóng bao la. Tình yêu quê hương vô bờ, dạt dào như chính dòng sông Trường Giang. “Không khói hoàng hôn cũng nhớ”, những người con xa quê hương chỉ cần một hình ảnh nhỏ cũng gợi nhớ về quê hương. Bóng chiều đã buông xuống, đây là lúc tâm trạng con người dạt dào cảm xúc nhất, nếu chú Hiếu thấy khói hoàng hôn thì lại nhớ nhà “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói mà buồn cho ai”. thì hãy đến với chúng tôi. Huy Cận anh không cần nhìn thấy “khói hoàng hôn” mà vẫn nhớ nhà. Đây là sáng tạo độc đáo của Huy Cận trong thơ mới.
Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ lên trước mắt ta một bức tranh hùng vĩ, với cách nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhưng bao trùm không gian ấy là một nỗi buồn man mác. Đó không chỉ là nỗi buồn của riêng tác giả mà còn là nỗi buồn của cả một thế hệ khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh mà Huy Cận tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước như bến thuyền mang vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại. Điều đó đã làm nổi bật nét độc đáo trong thơ Huy Cận.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 21
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới, thơ ông có bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội và triết lí. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn thăm thẳm, vô tận, huyễn hoặc và thảm hại; Nỗi buồn của “đêm mưa”, của “lữ khách”, nỗi buồn của “quán đèo cao”, “trời rộng sông dài”. Tràng Giang là một trong số đó, bài thơ mang phong cách Đường rõ nét. Đây là bài thơ lấy cảm hứng từ cảnh sông nước mênh mông của Cống Hồng. Huy Cận từng tâm sự: “Chiều chủ nhật nào tôi cũng thường ra khu Chèm để thưởng ngoạn phong cảnh sông Hồng, hồ Tây. Cảnh sông nước đẹp, gợi cho em nhiều cảm xúc. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ bởi sông Hồng gợi cảm mà còn mang những cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương.
Huy Cận, đây là một bài thơ tình. Tình gặp phải cảnh tình buồn nên cảnh cũng buồn. Nhan đề bài thơ là Tràng Giang vẽ ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên cổ kính, cổ điển với hai âm Hán Việt vừa gợi hình vừa gợi nỗi sầu dai dẳng, nặng trĩu. mãi trong tâm trí tác giả. Tràng Giang hay còn gọi là Trường Giang là từ Hán Việt có nghĩa là sông dài. Nhưng tác giả lấy tên là Tràng Giang chứ không phải Trường Giang. Vì vốn dĩ Trường Giang chỉ có nghĩa là dòng sông dài giản dị thế thôi, nhưng ngược lại, Tràng Giang nói lên dòng sông mênh mông, đồng thời thể hiện tâm trạng, tình cảm của chính tác giả.
Nỗi buồn mênh mang bao trùm không gian và thời gian thấm đẫm tâm hồn tạo vật. Những buổi chiều muộn, bên bờ sông, thi nhân thường đứng trầm tư để lòng mình thương nhớ trời dài sông dài. Ca từ cũng thể hiện giọng điệu, tình cảm của bài thơ. Tràng Giang là một bài thơ mang âm điệu trầm buồn, hài hòa giữa cảnh và tình. Đồng thời, lời ca cũng thể hiện tình yêu quê hương thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thơ ca nói chung.
Trong không gian bao la của sông nước hiện lên nỗi buồn liên tưởng của tác giả
“Sóng lăn tăn buồn thương,
Con thuyền đi xuống mái nhà song song.”
Tràng giang dài rộng trải ra từng đợt sóng trùng trùng điệp điệp. Động từ gợn sóng diễn tả làn sóng nhẹ nhàng tưởng như mong manh, mơ màng nhưng lại lan tỏa vô tận. Nó gợi lên nỗi buồn khó tả của nhà thơ. Nghệ thuật gieo vần “ang” kết hợp với phép láy “điệp điệp” tạo nên âm hưởng trầm buồn. Con đò trơ trọi, xuôi dòng, ở sự xót xa của dòng nước làm cho bức tranh sông nước càng thêm hiu quạnh, mênh mông.
Nhà thơ thường ẩn sau cái mênh mông của sóng, khác với nhà thơ mới thường phô bày cái tôi của mình. Nhưng nếu như các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong được hòa nhập, giao cảm thì Huy Cận lại hướng về thiên nhiên để bày tỏ nỗi ưu tư, xót xa về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
“Về nước trăm mối sầu;
Củi cành khô nằm mấy đường”.
Hình ảnh sông nước mênh mông và con thuyền nhỏ giữa dòng tạo nên sự đối lập gợi cảm giác hiu quạnh. Từ xưa, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn gần gũi, gắn bó. Chưa ở đây. Con thuyền lênh đênh mà nước mênh mông hình như có một cuộc chia ly buồn chờ đợi
Thuyền đã về hết, chủ còn sông mênh mang sóng. Vì vậy, cảnh dễ gợi lên nỗi sầu trăm ngã – nỗi sầu trăm ngã của đất trời. Giữa dòng sông mênh mông nặng trĩu buồn chia ly, trăm phương gợi chia ly hiện ra một cành củi khô, một cành lạc loài, mấy dòng trôi, lạc lõng bơ vơ, chẳng biết về đâu. đâu đó trong dòng sông bất tận.
Ở khổ thơ thứ hai, tác giả đi vào chi tiết miêu tả nỗi buồn, nỗi buồn không còn lang thang vô định trên sông mà đã đáp xuống một mảnh đất nhỏ.
Hai từ uể oải, u uất được tác giả khéo léo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một khung cảnh vắng lặng. Đoạn thơ miêu tả những hàng cây nhỏ, gầy guộc, lưa thưa trên cồn, đồng thời gợi lên dáng vẻ cô đơn, ngơ ngác của những câu hát giữa dòng Tràng giang rộng lớn. Melancholy nói về làn gió nhẹ lan tỏa nỗi buồn khắp thế giới. Đâu đó có một âm thanh xa xăm, bâng khuâng, có thể vấn vương như nỗi niềm mong mỏi của nhà thơ về một chút sinh hoạt, một âm thanh của cuộc sống con người. Cũng có thể là hư không, một sự phủ định hoàn toàn, quanh đây không có gì sống động để xua đi sự cô tịch của thiên nhiên. Bức tranh Tràng Giang tuy có cồn, có nắng, có bến, có làng, có chợ, nghĩa là có chút tiếng người nhưng vẫn không lấn át được cảm giác mục nát, lẻ loi, lẻ loi, buồn mênh mang. Vì không có gì buồn hơn buổi chợ chiều lác đác.
“Mặt trời lặn và bầu trời cao chót vót
Song Long trời rộng bến vắng”
Không chỉ là vòm trời soi bóng xuống lòng sông mà còn gợi nỗi cô đơn không đáy của tâm hồn con người trước vũ trụ vô tận. Con người càng nhỏ bé và cô đơn, bơ vơ hơn trong vũ trụ bao la. Đây là tâm lý tự nhiên của con người khi đứng trước vũ trụ vô thủy vô tận:
“Ai đã từng đi qua?
Ai chưa đến?
Hãy nghĩ về trời và đất
Nước mắt một mình”
Bị ám ảnh bởi sự trôi nổi, phiêu lưu và khao khát được đồng cảm
“Bạn trôi về đâu, nối tiếp hàng;
Lênh đênh không thuyền qua
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”.
Hình ảnh bèo trôi trên sông là một hình ảnh thường được sử dụng trong thơ ca cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, trôi nổi của một kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hai cánh bèo mà hết hàng này đến hàng khác. Hàng lục bình làm lòng người xao xuyến trước thiên nhiên, để lòng người thêm đau đớn, cô đơn. Bên cạnh những hàng bèo là bãi xanh, bãi vàng như mở ra một không gian bao la, vô tận, thiên nhiên dường như không có con người, không có hoạt động của con người, không có sự hài hòa. , liên kết.
Tác giả đưa ra một cấu trúc phủ định…không…không phải để phủ nhận hoàn toàn các mối liên hệ giữa con người với nhau. Trước mắt nhà thơ lúc này không còn gì gợi sự thân thiết để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bủa vây, bao bọc, chỉ có một thiên nhiên rộng lớn, bao la. Cây cầu hay bến phà qua lại, phương tiện kết nối của con người dường như đã bị thiên nhiên nhấn chìm và trôi dạt về đâu đó. Khổ thơ thể hiện nỗi buồn trước cảnh và cùng với nó là nỗi buồn về cuộc đời của tác giả.
Nỗi buồn của Huy Cận lan dần từ không gian thiên nhiên sang không gian tâm trạng. Đằng sau bức tranh thiên nhiên hùng vĩ của tầng lớp mây cao đùn núi bạc là tấm lòng của thi nhân. Từ nỗi buồn trùng điệp, nỗi buồn trăm phương ở những khổ thơ trên, đến đây, nỗi sầu của nhà thơ đã dâng lên tầng tầng, lớp lớp cho đầy trời. Lớp từ diễn tả nhiều lớp nối tiếp nhau, nối tiếp nhau không ngừng. Đùn tả mây và cả nỗi sầu tự nó bung ra, liên tục như có một lực đẩy từ bên trong. Đúng vậy: Càng lắc càng lắc thì càng đầy. Câu thơ của Huy Cận làm ta nhớ đến câu thơ được dịch trong tập thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ: Mặt đất mây đùn cửa đình. Cánh chim nhỏ bé tượng trưng cho sự sống, khát khao được bay và ước mơ được bay, tuy gợi lên chút ấm áp cho cảnh vật nhưng vẫn không sánh được với nỗi buồn của thi nhân. Vì tiếng chim chiều trong thơ Huy Cận có nét độc đáo riêng. Đến đây, nỗi buồn lấp đầy Tràng Giang, từ trên trời rớt xuống cánh chim yếu ớt, thấm sâu vào lòng nhân gian:
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Sự nhấp nhô của mặt nước vừa là hình ảnh, vừa là tâm trạng. Nó vừa diễn tả những con sóng đang lan tỏa, vừa gợi cảm giác buồn lạnh lẽo, u uất lan tỏa không biết bấu víu vào đâu. Dòng sông vốn dài càng rộng càng rộng, gặp nhau lúc hoàng hôn gợi lên một nỗi buồn hiu quạnh. Nỗi buồn của nhà thơ trong chiều sâu của nó cũng có nguyên nhân rất riêng. Đó là nỗi buồn của người xa quê xúc động nhớ quê hương. Câu thơ cuối càng khẳng định rằng: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Điều đó chứng tỏ nỗi nhớ của tác giả luôn dai dẳng, cháy bỏng. Đó chính là tình yêu quê hương, đất nước riêng tư, tha thiết của nhà thơ.
Với màu sắc cổ điển, giọng điệu gần gũi, thân thuộc, bài thơ đã thể hiện cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, tình yêu nước thầm kín nhưng nồng nàn.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 22
Mới đọc, đôi khi tôi lầm tưởng Tràng giang là một bài thơ tả cảnh thiên nhiên đơn giản. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ sẽ thấy điều tác giả muốn nói trong bài thơ này tuyệt nhiên không phải là cái hữu hình, nhất thời mà là cái vô hình, vĩnh cửu. Đúng như Hoài Thanh khẳng định: Huy Cận có thể đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người đạo đức lắng nghe cuộc đời để ghi lại nhịp điệu trầm lắng của thế giới nội tâm. Thế giới nội tâm, tâm hồn của sinh vật trong bài Tràng Giang là nỗi buồn mênh mang.
Dòng sông và con người, không gian bao la và tâm trạng cụ thể; đó là một bộ tứ cổ điển:
Gợn sóng Tràng Giang nhắn buồn
Con đò xuôi mái song xuôi.
Bài thơ có tựa là Tràng giang, câu đầu cũng lặp lại nhan đề. Tràng Giang chứ không phải Trường Giang.
Tràng Giang góp phần tạo nên âm hưởng sâu lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu của bài thơ. Mặt khác. Tràng Giang còn gợi hình ảnh sông dài biển rộng vừa là Tràng Giang, vừa là Đại Giang. Phải chăng sông Hồng trường tồn mãi, chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử? Và suy cho cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật gợi, gợi cả cảm xúc lẫn ấn tượng về một nỗi buồn miên man kéo dài trong không gian. , và theo thời gian (thông điệp).
Ở khổ thơ đầu cũng như trong toàn bài Tràng Giang, nghệ thuật đối của thơ Đường được vận dụng rất linh hoạt, chủ yếu về mặt ý chứ không gò bó bởi niêm, luật như thơ cổ. Chẳng hạn, gợn sóng buồn, có thể ví con thuyền xuôi theo dòng nước song song; Nắng xuống, trời thăm thẳm, ví: Sông dài, trời rộng, bến vắng. Hoặc ở một mức độ khác: trôi dạt hết hàng này đến hàng khác; – Sự bao la của biển cả không thể so sánh với một con thuyền có thể gợi lên chút gì thân thiết cho Khổng – Lặng lẽ, bờ xanh gặp bãi vàng.
Nghệ thuật đối lập (và đối xứng) trên đây, một mặt làm cho giọng điệu thơ linh hoạt, uyển chuyển (tránh sự khuôn sáo, cứng nhắc lộ liễu của một số bài thơ Đường luật đầu thế kỉ). ; mặt khác vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của thể loại thơ này là tạo không khí trang trọng cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật sử dụng các từ láy như: pharaoh, song song cũng có tác dụng nhất định trong việc gợi âm hưởng cổ kính. Nhưng Tràng giang vẫn là thơ hiện đại. Trước hết, hiện đại ở hình ảnh, ở chất liệu thơ ở cảm xúc:
Thuyền về lại buồn
Củi cành khô nằm mấy đường.
Những năm 30 của thế kỷ 20, đó là những câu thơ mới, bởi trong đó hiện lên những cái tầm thường, vô nghĩa như củi, cành khô… thơ xưa chủ yếu là lãnh địa của người mặc. khách, hầu như thiếu vắng hiện thực khô khan của đời thường. Thời Thơ Mới nó xuất hiện, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong thơ ca (Hoài Thanh). Hình ảnh cành củi khô trơ trọi trên dòng sông mênh mông gợi lên nỗi buồn của kiếp người nhỏ bé, vô định.
Đến khổ thơ thứ hai, nỗi buồn như thấm vào cảnh vật:
Bài hát nhỏ của gió cô đơn
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Mặt trời lặn, trời lên, thăm thẳm;
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Theo Huy Cận, đó là cái truân chuyên ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: Non Kỳ quanh trăng treo – Bến Phì gió thổi mấy gò. Cặp từ uể oải, thê lương gợi lên nỗi buồn, hiu quạnh, hiu quạnh… chợ chiều thường buồn tẻ, không có sự nhộn nhịp, náo nhiệt của chợ sáng, chợ trưa. Đoàn Văn Cừ đã diễn tả thành công nét buồn này bằng những câu kết bài thơ Chợ Tết quanh chợ. Ở Tràng Giang, tiếng chợ chiều vọng từ một thôn xa gợi lên một không khí buồn hiu quạnh:
Mặt trời lặn, trời lên, thăm thẳm
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Đây là một số bài thơ có giá trị hình ảnh. Không gian được mở rộng, và được đẩy lên cao hơn. Sâu gợi lên trong người đọc một ấn tượng sâu sắc, vô cùng hấp dẫn. Cao chót vót cho thấy chiều cao vô tận. Càng rộng, càng cao, cảnh vật càng vắng lặng, chỉ có sông dài, với đôi bờ hiu quạnh. Nỗi buồn như thấm vào không gian ba chiều. Con người trở nên nhỏ bé, có phần choáng ngợp trước vũ trụ bao la, vĩnh hằng, không khỏi cảm thấy lạc lõng trước sự bao la của đất trời, sự xa vắng của thời gian. (Hoài niệm).
Ấn tượng trên càng được tô đậm trong khổ thơ tiếp theo:
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác?
Mênh mông không một con đò qua
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Vẫn trong mạch cảm xúc ở hai khổ thơ đầu, nỗi buồn lại càng được khắc sâu hơn qua hình ảnh cánh bèo trôi. Bên cạnh hình ảnh con thuyền cùng dòng nước trôi về vô biên, hình ảnh cành củi khô bập bềnh trên sông ở khổ thơ một, đến khổ thơ này, cảm giác chia ly, ly tán lại một lần nữa được khắc họa. , gợi lên một nỗi buồn mênh mang. Toàn cảnh sông dài, trời rộng, tuyệt nhiên không một bóng người; Không có phà, cũng không có cầu – nhờ chúng tạo được sự gần gũi giữa con người với con người, chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) tiếp nối với thiên nhiên (bãi vàng) xa tít tắp. vắng vẻ, hoang vu.
Như vậy, sự cô tịch đã được nhà thơ đặc trưng hóa bởi chính cái không tồn tại. Thực ra điều này cũng có thể thấy ở khổ thơ bốn (Không khói hoàng hôn…) nhưng rõ nhất vẫn là ở khổ thơ ba. Do đó, có thể nói rằng thái độ tiêu cực của tác giả đối với thực tế nằm trong cấu trúc của bài thơ.
Khổ cuối bài thơ có mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường nhưng vẫn giữ được nét riêng của Thơ mới, vẫn thể hiện nét độc đáo trong hồn thơ Huy Cận:
Mây cao đùn núi bạc
Con chim nhỏ: bóng hoàng hôn,
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thiên nhiên buồn, nhưng cũng tráng lệ. Mùa thu, mây trắng đùn lên phía chân trời, ánh mặt trời phản chiếu trông giống như những ngọn núi bạc. Hình ảnh mây cao đùn núi bạc tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước khung cảnh bao la và hùng vĩ của non sông và mây trời, bỗng xuất hiện một chú chim nhỏ, chỉ cần chao cánh là cả bóng chiều buông xuống. Hình ảnh một con chim lẻ loi trong một buổi chiều tà cũng gợi lên một nỗi buồn xa vắng. (Chim hôm nào bay về rừng – Hoa trà em ngậm nửa vầng trăng. Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nhưng điều đáng chú ý hơn ở đây là tác dụng của nghệ thuật đối lập; sự đối lập giữa cánh chim nhỏ bé với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng điều này đã làm cho khung cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt buồn hơn?
Như vậy, xuyên suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn trong bài thơ này, cũng như nỗi buồn của nhiều nhà thơ mới, trước hết là nỗi buồn của cả thế hệ, của cả dân tộc trong những năm tháng ngột ngạt của thời Pháp thuộc. Bên cạnh đó, có lẽ nỗi buồn trên còn xuất phát từ quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi đôi với nỗi buồn. Bodole, người mà Rembo gọi là hoàng đế của các nhà thơ, từng có câu nói nổi tiếng: Bạn đẹp và bạn buồn. Hơn nữa, nỗi buồn của Huy Cận trong bài thơ này bao giờ cũng là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú tâm hồn người đọc; đó cũng chính là nỗi buồn làm nên sức hấp dẫn mê hoặc của thơ ca dân gian Nga, như Bielinsky đã nhận xét.
Bài thơ mang ý nghĩa cổ điển, tạo nên những âm vang lạ bởi tác giả đã chọn thể thơ phù hợp (gần với thể cổ phong) sử dụng phép tương phản tự nhiên, sử dụng hiệu quả, với tần suất cao. , hệ thống điệp từ so le (10 lần trong 1 dòng thơ) và lối ngắt nhịp truyền thống… Chất cổ điển đặc biệt thể hiện rõ trong kết cấu. Thôi Hiệu nhìn khói hương nhớ quê (Nhật mộ quan trong thành? – Yên ba giang thượng nhân sư – Hoàng Hạc Lâu). Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Ai buồn trên sông? Huy Cận không cần khói thuốc – không cần nhắc nhở – mà lòng vẫn xốn xang nỗi nhớ nhà. Rõ ràng nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn; nên hiện đại hơn!.
Cổ kính, trang nghiêm, Tràng Giang cũng là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông lăn tăn, con thuyền xuôi mái chèo, những que củi khô trôi, những cánh bèo trôi, chợ chiều làng quê, những cánh chim chiều muộn… thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta.
Phân tích Tràng Giang – Văn mẫu 23
Nếu phải kể đến những cặp thơ gắn bó, thân thiết với nhau thì trong thơ Việt Nam hiện đại, đáng nói đầu tiên vẫn là bộ đôi Xuân Diệu – Huy Cận. Bộ đôi lập làng thơ “Huy – Xuân” trong phong trào thơ mới
Nhưng điều đó không có nghĩa là hai tâm hồn giống nhau mà ngược lại. Như sau này có người đã nhận xét: “Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận là nhà thơ của nỗi niềm không gian.” Chính cảm hứng về vũ trụ bao la, rộng lớn đã góp phần làm nên vẻ đẹp thơ Huy Cận, ngay từ thời điểm nhà thơ viết tập đầu tiên – “Lửa thiêng”. Và khi điểm qua một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của tuyển tập, phải kể đến “Tràng Giang”.
Theo cảm nhận “Tràng Giang” là sông dài nhưng Huy Cận muốn cảm nhận nó là sông rộng. Và như vậy rõ ràng là hợp lý, dựa trên cảm giác về dòng sông nếu không phải do ấn tượng về âm thanh, bởi vì cả hai từ của nhan đề – “trang” và “giang” đều được cấu tạo bởi một từ duy nhất. Nguyên âm rộng nhất trong các nguyên âm.
Ngoài ấn tượng về chiều rộng được nêu ra ở nhan đề bài thơ, ấn tượng đó còn hiện diện ở câu nhan đề:
Tôi nhớ trời rộng nhớ sông dài.
Độ cao của bức tranh là khoảng cách giữa trời rộng và sông dài, tạo nên một không gian ba chiều đầy đặn. Điều này rất sớm giới thiệu với người đọc Huy Cận, một nhà thơ của cảm hứng không gian. Và trong không gian rộng lớn ấy, nhà thơ đã thả vào mình một nỗi nhớ nhẹ nhàng, mơ hồ mà ta có thể nhận thấy qua các từ “nhớ”, “xót xa” mà nhà thơ đặt ở đầu câu.
Sóng lăn tăn gửi tin buồn Con thuyền xuôi theo dòng nước song song, Thuyền về nước buồn trăm phương Củi cành khô nằm mấy đường.
Đoạn thơ mở đầu bằng một hình ảnh rất phù hợp với bài thơ – “sóng”. Sóng trên dải “tràng giang” của Huy Cận không phải là sóng xô, sóng vỗ hay “sóng ngút trời” như trong thơ Đỗ Phủ mà chỉ là “sóng lăn tăn”. Chuyển động nhẹ nhàng để gợi hình ảnh dòng sông tĩnh lặng. Nhà thơ tìm thấy cái tĩnh trong cái tưởng như rất động, thể hiện một hồn thơ thiên về cái tĩnh. Gợn sóng trong đôi mắt đầy cảm xúc của nhà thơ như lan tỏa đến vô tận. Vì vậy, ngay từ những câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác hẳn với phong cách thơ cổ điển, đó là sự xuất hiện của từ “buồn” ở đầu bài thơ – “buồn điệp điệp”. nỗi buồn mang hình ảnh của gợn sóng, mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước mắt con người. Như vậy, “Tràng Giang” rất nhanh đã trở thành dòng sông của tâm trạng, vừa là hình ảnh của ngoại cảnh, vừa là hình ảnh của thế giới nội tâm.
Trên bức tranh sông nước ấy hiện lên hình ảnh con thuyền, con thuyền không chèo “xuống mái” – một hình ảnh tĩnh lặng trên dòng sông tĩnh lặng. Mái chèo buông xuôi theo mạn thuyền để lại hai vệt nước mà nhà thơ gọi là “song song”. Hai từ láy này đã được ghép với hai từ “điệp điệp” ở cuối câu đầu tiên như muốn gợi lên cảm giác về một nỗi buồn vô tận. Bức tranh thiên nhiên mở ra theo cả hai chiều, “điệp điệp” gợi không gian về chiều rộng, “song song” gợi cảm giác về chiều dài.
Nhưng đến câu thơ thứ ba:
Thuyền về lại buồn
Rồi hình ảnh nước và thuyền trở về, nhưng không phải là thuyền lênh đênh trên nước mà là “thuyền về, nước về”. Mỗi sự vật đều đi kèm với một động từ, tạo cảm giác chuyển động ngược lại. Tôi cảm thấy thuyền về, nước về và một khoảng trống sẽ mở ra, một khoảng trống của một nỗi sầu lan tỏa, mở ra không chỉ ở hai chiều đối lập mà ở mọi chiều trong không gian – “nỗi buồn”. trăm lối”. Nhà thơ viết “trăm lối” dường như làm cho người đọc cảm thấy nỗi buồn không có hồi kết, nỗi buồn càng thêm mênh mang. Tuy nhiên, không có câu thơ nào trong khổ thơ này khiến Huy Cận phải suy ngẫm nhiều hơn và thích thú hơn hơn câu thơ thứ tư:
Củi cành khô nằm mấy đường.
Rất lạ là câu thơ đầy tâm huyết này của Huy Cận lại bắt đầu bằng một từ dường như không có trong thơ ca nào, từ “củi”. Từ ấy lại được nhà thơ nhấn mạnh qua phép đảo ngữ “củi cành khô”. Nhưng phải là từ “củi” và phải là phép đảo ngữ thì nhà thơ mới có thể nói lên được hết một quan niệm, một triết lý sống. Từ đó không chỉ hay vì nó mang lại cho thơ cái chất mà Xuân Diệu gọi là “hiện thực sống động”, tạo nên một trong những phong cách thơ mới. Hình ảnh “củi” không chỉ nói về một thanh củi chết mà thực sự toát lên vẻ tầm thường. Nhưng đó là hình ảnh không gì thích hợp hơn để nhà thơ bộc lộ cảm xúc về sự nhỏ bé, vô nghĩa, lẻ loi của một kiếp người trước vũ trụ, thiên nhiên vô biên. Ý nghĩa đó như thấm vào từng câu chữ của bài thơ. Từ “một” gợi cái ít, từ “cành” gợi cảm giác nhỏ bé. Và vì thế, con người như lạc lõng, bơ vơ, ngơ ngác trước dòng nước của con sông lớn trong thực tại, cũng như trước dòng sông buồn trong lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ bé, lẻ loi của một kiếp người hoàn toàn khác với nỗi buồn của Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới”.
Đến khổ thơ thứ hai, không gian không còn giới hạn chỉ một mặt sông.
Ngọn gió nhỏ, du dương, buồn bã, Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều. Mặt trời lặn, bầu trời lên, nó sâu thẳm, Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Bức tranh “Tràng Giang” nay có thêm hình ảnh “sương chiều” của làng quê bên sông. Chính vì vậy, hai câu thơ đầu phảng phất, nhẹ nhàng mà sâu lắng về một miền quê hương. Huy Cận đã vô tình phác họa một khung cảnh rất quen thuộc ở một vùng quê Việt Nam: bên bờ sông hay giữa sông có những cồn nhỏ, xa xa ven sông có tiếng làng quê. Nhưng đó không phải là toàn bộ điểm của câu thơ. Không thể không nhận thấy Huy Cận muốn cồn trong bài thơ là “rượu nhỏ” và thưa thớt, dửng dưng. Cồn phải để mặt sông rộng ra. Gió “đìu hiu” làm dòng suối thêm êm đềm. Và Huy Cận cũng đã từng cho rằng hai chữ “đỏng đảnh” là mượn từ hai chữ của “Chinh phụ ngâm”:
Non Kỳ một mình với trăng treo Bến Phì gió thổi mấy gò.
Một ngọn gió hiu quạnh thổi ở nơi xưa kia là chiến trường đẫm máu, sự liên tưởng này làm cho ngọn gió trên sông của nhà thơ càng thêm buồn và cô đơn. Câu thơ thứ ba đã vang lên âm thanh của cuộc sống nhưng âm thanh ấy cũng thật nhỏ bé, yếu ớt và lẻ loi.
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Cảm giác ấy dường như thấm vào từng câu từng chữ. Câu thơ gợi nhớ một “chợ chiều” của một người “xa quê”. Cảm xúc đến với nhà thơ và người đọc qua giác quan mơ hồ – thính giác chứ không qua hình ảnh. Sự mơ hồ đó được nhân lên qua từ “đâu” ở đầu câu khiến nghe như không, như có thật. Nhưng cái thực nhất vẫn là sự tĩnh lặng bao trùm dòng sông. Đến câu thơ thứ ba, không gian được mở ra ở một chiều cao khác, chiều cao qua hình ảnh mặt trời và bầu trời:
Mặt trời lặn, trời lên, thăm thẳm.
Hai hình ảnh cũng được đặt trong các chuyển động ngược nhau – “lên” và “xuống”, theo nghĩa phân chia. Mặt trời lặn rồi trời lên, để lại một khoảng thăm thẳm mở ra, tạo nên cảm giác mà Huy Cận đã miêu tả bằng sự kết hợp từ độc đáo – “sâu chót vót”. Cụm từ này tạo cảm giác về chiều sâu của bầu trời và mặt nước. Không những thế phải có chữ “sâu” để không gian nhuộm màu sắc, cảm xúc trầm buồn. Và khổ thơ thứ hai được khép lại bằng một câu thơ gần với nhan đề nhất, bởi ở đây xuất hiện hình ảnh “sông dài, trời rộng”.
Song long, trời rộng, bến lẻ loi.
Nhưng bên cạnh hình ảnh ấy, Huy Cận lại đặt cạnh một hình ảnh “bến vắng”. Bến ấy cũng tượng trưng cho con người, cho cuộc đời vì dòng sông sẽ không còn chỗ là bến nếu không có hoạt động của con người ở bến ấy. Vì vậy, hình ảnh “bến vắng” cùng với âm hưởng man mác của hai từ “lẻ loi” ấy, một lần nữa gợi lên một nỗi buồn trần thế, nỗi buồn của cuộc đời quá nhỏ bé, rất hữu hạn trong tự nhiên. , và vũ trụ rộng mở đến vô cùng, vô tận.
Mở đầu khổ thơ thứ ba ta bắt gặp một sự chuyển biến:
Bạn trôi về đâu, hết hàng này đến hàng khác, Mênh mông không một chuyến đò qua. Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật, Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Dường như có một cái gì đó đông đúc hơn, chuyển động dường như cũng nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Ta nhận ra điều đó qua từ “lạc trôi” ở câu thơ đầu. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ ở ba từ “hết hàng này đến hàng khác”. Nhưng đám đông ở đây chỉ là đám bèo cái, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp người đương thời, những kiếp người vô nghĩa. Hình ảnh “lũ lụt” từ lâu cũng được dùng để nói về số phận của những con người không làm chủ được cuộc sống của mình. Và cái cảm giác vô định ấy lại được Huy Cận nhấn mạnh thêm bằng hai chữ “đi đâu về đâu”. Nhưng câu đầu không chỉ là hình ảnh của những kiếp người vô định, mà từng đàn vịt lênh đênh dường như còn làm tăng thêm cảm giác trống vắng ở những câu sau. Bởi người đọc sẽ có cảm tưởng rằng khi bèo đã trôi, nhìn lại dòng sông, người ta sẽ cảm thấy mình hoàn toàn trơ trọi với hai chữ “không” liên tiếp cứ vang lên ở câu thứ hai và câu thứ ba:
Mênh mông không một chuyến đò qua. Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật.
Từ “không đò” được hoà với từ “mênh mông” phía trước, từ “không cầu” hoà với câu trên, đặt ở đầu câu làm cho cảm giác cô đơn được thể hiện rõ nhất ở khổ thơ thứ ba. Cái này. Không có thuyền neo đậu. thậm chí không có một cây cầu nào im lìm, vô tri vô giác. Thậm chí không có một dấu vết nào của bóng dáng con người mà người ta thường hình dung qua hình ảnh con thuyền. Như vậy, hình ảnh “con thuyền” được đặt lên hàng đầu vì nó mang tính chất động hơn. Nhưng khi nói đến từ “chút thân tình” thì hình ảnh con thuyền, cây cầu không chỉ là hình ảnh thực mà còn là cảm nhận về cuộc sống thiếu vắng tình người. Cuộc đời quá bao la, một chút tri kỷ để nối đôi bờ cũng không thể tìm thấy, cho dù “tri kỷ” đã là mức tình cảm thấp nhất trong các cung bậc tình cảm. Và cảm xúc của nhà thơ trở lại với chiều dài và chiều rộng của lời tựa, khi nhà thơ viết câu thơ cuối:
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Cảm giác “không” gặp lại trong “lặng lẽ”, không hình, không tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc liên tưởng đến dòng chảy từ bờ xanh sang bãi vàng nhưng tuyệt nhiên không có tiếng động. Ta lại nhận ra đây một dòng sông buồn.
Mây cao đùn núi bạc. Cánh chim nhỏ trong bóng tối. Lòng đất nước dâng đầy nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Có thể nói đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ gợi sự liên tưởng về một câu thơ Đường. Cũng không có khổ thơ nào trong “Tràng Giang” lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh trời chiều trên sông trong trẻo và gợi nhiều liên tưởng như ở khổ thơ thứ tư này. Câu thơ đầu cho ta cảm giác về một thiên nhiên vừa thân thuộc, vừa rộng lớn, tráng lệ.
Mây cao đùn núi bạc.
Chỉ bảy chữ thôi nhưng câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh mà mây như đùn lên, xô đẩy từ chỗ trời gặp mặt nước, không ngừng chồng chất lên trời cao. Nó trông giống như một ngọn núi, nhưng đó là một ngọn núi bạc. Những đám mây ấy đang phản chiếu lại những tia nắng ban trưa, để ánh sáng lung linh, nhấp nháy tạo thành một không gian rộng lớn, gợi lên trong bài thơ một cảm giác thanh tịnh hiếm có.
Vẫn hướng nhìn về bầu trời, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ chỉ vào bức tranh bầu trời phía trên dòng sông với hình ảnh cánh chim, một hình ảnh rất tiêu biểu cho cảnh chiều tà.
Cánh chim nhỏ: bóng hoàng hôn.
Nhưng con chim ấy không khỏi làm người yêu thơ nhớ đến một câu thơ của Vương Bột:
Cô ấy xấu xa, cô ấy bị phơi bày
(tạm dịch: cố chiều rơi với con cò lẻ loi bay).
Nhưng tiếng chim chiều trong thơ Huy Cận không êm đềm như vậy, nhà thơ nói đến “chim cánh nhỏ”. Chi tiết ấy đủ khiến người đọc nhận ra bóng chiều đang buông xuống. Giờ đây, bóng chiều dường như vô hình có thể được xem như là một vật thể hữu hình. Nhà thơ đã biến cái vô hình thành hữu hình. Và như vậy chỉ với hai câu thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc những cảm xúc gần gũi, quen thuộc về quê hương, đất nước để rồi từ cảnh quê ở hai câu đầu nói về tình yêu đất nước, đến nỗi nhớ quê hương da diết. ở hai câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông như những con sóng lăn tăn trên sông rồi trải dài theo dòng nước ra xa.
Lòng đất nước rung rinh theo dòng nước.
“Tuyệt vời” được hiểu theo nghĩa là nhìn vào khoảng không. Như vậy ở câu thơ thứ ba này, nhà thơ đang nhìn ra xa, lòng cũng trải theo mặt nước, cũng xao xuyến cùng dòng nước. Câu thơ mượn hình ảnh sóng nước để nói về nỗi nhớ da diết. Nỗi nhớ ấy sâu lắng, thường trực trong lòng nhân vật trữ tình mà không phải gợi lên bởi một làn khói hoàng hôn như trong thơ Thôi Hiệu:
Yên Giang ba cao nhân sử (Trên sông khói sóng buồn ai)
Và cứ thế, nỗi nhớ, tình yêu quê hương cứ trào dâng khắp mặt nước khổ thơ cuối. Không chỉ vậy, người đọc còn có thể nhận ra khổ thơ thứ tư là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ gợi lên một thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật quen thuộc. Chính Huy Cận cũng thừa nhận chữ “đùn” của câu thơ đầu là học từ bản dịch “Thủy” của Nguyễn Công Trứ:
Mặt đất mây phủ, cổng trời xa.
Đoạn thơ thứ hai được viết dưới ảnh hưởng của câu thơ của Vương Bồ:
Cô ấy đang tiếp xúc một cách quyết liệt.
Và hai câu thơ cuối không khỏi khiến người đọc liên tưởng đến hai câu đối trong “Hoàng Hạc Lâu” (Từ Hiếu).
Quê hương trong bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng buồn ai.
Điều đó có nghĩa là cho đến khổ thơ cuối này, nỗi buồn của nhà thơ không chỉ trải dài trên các chiều không gian như ba khổ thơ trước, mà nỗi buồn ấy còn được trải dài vô tận trên chiều thời gian. Bởi mỗi câu thơ trong khổ thơ đều ẩn chứa một nỗi buồn tưởng chừng như muôn thuở của những câu thơ viết từ ngàn năm trước. Và nhờ khổ thơ này mà nỗi sầu của “Tràng Giang” không chỉ là “nỗi sầu ngàn lý” mà còn là “nỗi sầu ngàn năm”. Nỗi niềm “tâm hồn bé nhỏ mang nỗi sầu thiên cổ” (Huy Cận) thể hiện rõ ở khổ thơ này hơn bất kỳ khổ thơ nào khác. Và như vậy, nỗi buồn vũ trụ càng đầy đủ thì nỗi lo không gian càng đầy đủ. Ở cuối khổ thơ, nỗi buồn tròn đầy, trọn vẹn được mở ra trong ba chiều không gian và thời gian, làm cho “Tràng Giang” càng đậm đà hương vị Đường Thi, hương vị thơ cổ điển ở khổ thơ cuối. .
Tuy nhiên, không phải vì thế mà có thể coi Tràng Giang là những bài thơ cổ điển. Huy Cận vẫn hiện diện trong thơ với tư cách là một nhà thơ mới, nhận ra từ cảm giác bơ vơ, nhỏ bé, một tâm trạng rất chung của một “tuổi thơ”. Chính vì thế mà cánh chim chiều của Huy Cận thật yếu ớt và đáng thương, bởi đôi cánh nhỏ bé ấy còn không đỡ nổi bóng chiều dịu dàng, ban phải chao đảo. Nó khác nhiều với cánh cò điềm đạm trong thơ Vương Bột. Chất thơ mới ấy còn thể hiện ở những rung động tinh tế khó nắm bắt trong cách nói “gió thoảng” tạo cảm giác mơ hồ, lung linh không rõ nét. Ngoài ra, nhà thơ cũng bác bỏ nguyên tắc “đời cảnh” vốn là khuôn mẫu trong thơ cổ. Tình yêu không nhất thiết phải được khơi gợi từ khói hoàng hôn. Và với tất cả những lí do trên, khổ thơ cuối “Tràng giang” đã đạt được những thành công đáng kể trên cả hai phương diện: nội dung cảm xúc và hình thức văn chương.
***************
Với hướng dẫn phân tích bài thơ Tràng Giang chi tiết trên đây cùng những bài văn mẫu hay, đạt điểm cao, hi vọng các em đã có thể tự mình cảm nhận và viết được một bài văn phân tích Tràng Giang hay, sâu sắc. , từ đó làm nền tảng để phát triển các bài toán khó hơn. Mời các bạn tham khảo thêm các bài văn mẫu lớp 11 của trường THPT Lê Hồng Phong các bạn nhé!
Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong