phân tích bài thơ đồng chí


Đồng chí là một bài thơ xuất sắc trong kho tàng thơ ca thời chống Pháp. Đây cũng là bài thơ đã làm nên tên tuổi của nhà thơ Chính Hữu. Để hiểu rõ hơn về bài thơ này, mời các bạn cùng tham khảo bài viết Phân tích bài thơ Đồng chí với trường Edison lớp 9 sau đây.

nội dung

I. Dàn ý

1.  Mở bài:

Có thể lựa chọn nhiều cách mở bài khác nhau:

– Giới thiệu tác giả và giới thiệu bài thơ “Đồng chí”.

– Trích dẫn một nhận xét hay về nhà thơ Chính Hữu hoặc bài thơ “Đồng chí”.

– Trích dẫn một câu thơ hay về người lính hoặc về chiến tranh của tác giả khác, để liên kết với bài viết Đồng chí.

2. Thân bài:

Một. Tình đồng chí được hình thành từ những cơ sở sau:

– Bối cảnh chung:

+ Quê em: Nước chua mặn ngọt

+ Làng tôi: Nghèo nàn, đất cày lên sỏi đá

→ Cả hai đều xuất thân nghèo khó.

– Chung lý tưởng chiến đấu: Hai con người xa lạ nhưng cùng chung một lý tưởng là bảo vệ Tổ quốc “súng kề đầu”. “Súng” tượng trưng cho chiến trường, “đầu” là tâm tư, tình cảm của người lính. Đây là bài thơ thể hiện tinh thần đoàn kết, chung lí tưởng, chung nhiệm vụ.

– Tình hình chung về thiếu hụt nguyên vật liệu “Đêm lạnh chung chăn như tri kỷ”: Điều kiện sống ở chiến trường thiếu thốn, hai người phải đắp chung một chiếc chăn nhỏ. Nhưng chính nhờ những đêm lạnh lẽo thiếu thốn ấy mà hai con người xa lạ đã trở thành tri kỉ của nhau.

b. Biểu hiện của tình đồng chí:

– Hiểu tình cảm của nhau, hiểu cảnh xa quê, xa quê đi chiến đấu.

– Cùng trải qua bệnh tật: biết từng cơn ớn lạnh, sốt rét run, vã mồ hôi trán.

– Chia sẻ khó khăn: Áo anh rách vai, quần em có vài mảnh vá, chân không có giày.

→  Dù khó khăn, bệnh tật, thiếu thốn nhưng không gì có thể ngăn cản được tình đồng đội cao quý của những người lính.

c. Hình ảnh đẹp về người lính:

– Sát cánh bên nhau chờ giặc tới: Thái độ chủ động “chờ giặc”, hiên ngang sừng sững như một tượng đài nguy nga. Họ sát cánh bên nhau trong đêm “rừng hoang”, sương mù nhưng tình đồng chí ấm áp đã giúp người lính quên đi cái lạnh và nỗi sợ hãi.

– Đầu súng trăng treo: Đầu súng là hiện thực của chiến tranh, trăng tượng trưng cho cái đẹp, cho hòa bình. Hai hình ảnh quyện vào nhau làm một, tạo nên biểu tượng cao đẹp cho người lính: Vừa hào hùng, vừa lãng mạn.

3. Kết luận:

Học sinh có thể lựa chọn nhiều cách kết bài khác nhau: Khẳng định giá trị sâu sắc của bài thơ hoặc khẳng định lại tài năng của tác giả.

II. Bài văn tham khảo: Phân tích bài thơ Đồng chí lớp 9

Bài 1:

Nhà thơ Chính Hữu là một “nhà thơ quân đội thứ thiệt”, ông trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Chính Hữu viết nhiều và viết rất hay về người lính. Dường như trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, anh đã dành tất cả tình yêu của mình cho màu áo lính. Bài thơ “Đồng chí” là tác phẩm đã làm nên tên tuổi của nhà thơ Chính Hữu. Chính Hữu đã đưa những nét vẽ tài tình để tạo nên hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp – vừa hào hùng vừa lãng mạn, cháy bỏng trong tim lòng yêu nước, tình đồng đội tha thiết.

Nhà thơ Chính Hữu sinh năm 1926. Ông tham gia cách mạng năm 1945, tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác năm 1948, lấy cảm hứng từ chính trải nghiệm của nhà thơ khi cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc. “Đồng chí” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Người lính trong “Đồng chí” hiện lên qua một hình ảnh thơ hết sức giản dị. Họ là những người xa lạ, từ những miền quê khác nhau đến đây để tụ họp, tạo tình đồng chí.

Tác giả đã thật tinh tế khi sử dụng cặp đại từ “anh – tôi”. Gọi “anh” xưng “tôi” thể hiện sự tôn trọng, quý mến đồng đội. Một tiếng “anh” như kéo hai con người xa lạ lại gần nhau hơn. Họ đến từ nhiều miền quê khác nhau, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc mà về đây hội tụ. Một là vùng “đồng chua nước mặn”, hai là vùng “đất cày lên sỏi đá”, hai địa phương khác nhau nhưng cùng chung cảnh nghèo khó, vất vả. Có lẽ cái nghèo và sự thấu hiểu nỗi vất vả của nhau đã khiến tình cảm anh em ngày càng gần gũi, tạo nền tảng cho sự hình thành “tình đồng chí”. Họ gặp nhau không hẹn trước, tất cả đều nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và lên đường trở thành những người lính, từ những người xa lạ không biết tên trở nên thân thiết hơn, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau:

Không chỉ có chung xuất thân, lý tưởng bảo vệ Tổ quốc tươi đẹp cũng khiến những trái tim hòa chung một nhịp đập. Cây súng tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, cái đầu tượng trưng cho suy nghĩ và khối óc của người lính. Hai người lính kề vai sát cánh thực hiện nhiệm vụ, vượt qua mọi hiểm nguy trên chiến trường. Họ cùng chung lý tưởng, cùng chí hướng và thấu hiểu tình cảm của nhau. Tác giả đã khéo léo sử dụng phép đối lập phụ “Súng kề súng, đầu kề đầu” và hoán dụ “đầu kề đầu” gợi sự sẻ chia, gắn bó như người bạn tri kỉ, tri kỉ luôn đồng điệu. nhau, luôn hiểu nhau.

Tình đồng chí như bền chặt hơn qua những lúc khó khăn, chia ngọt sẻ bùi trên chiến trường. Sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất của quân ta trong những năm đầu đánh Pháp được tác giả gợi lên một cách tinh tế qua hình ảnh “chung chăn đêm lạnh”. Lính đóng quân trong rừng, ban đêm lạnh cắt da cắt thịt mà chỉ đắp một tấm chăn mỏng. Những người lính chung chiếc chăn nhỏ nhưng đầy ắp tình yêu thương, sẻ chia. Tưởng chừng khó khăn sẽ làm người lính chùn bước, nhụt chí. Nhưng không, khó khăn là sẻ chia, vượt qua, khó khăn đã giúp tình đồng chí thăng hoa, trở thành tri kỷ của nhau. Người ta nói tình bạn trong khó khăn mới là tình bạn chân thành và lâu bền nhất.

Khổ thơ kết thúc bằng hai từ “Đồng chí ơi!”. Không dài dòng, hoa mỹ, chỉ hai từ nhưng chứa biết bao ý nghĩa. Tiếng gọi “đồng chí” thật trang nghiêm nhưng cũng thật gần gũi. Giọng thơ trầm thấp tạo cảm giác thiêng liêng, cao cả về tình đồng đội. Dấu chấm than đặt cuối câu càng làm cho câu thơ thêm xúc động, như một lời gọi, lời chào thân thương dành cho đồng đội. Chính Hữu không dùng nhiều từ, mà dùng từ “đắt”. Hai chữ “đồng chí” như một bản lề, khép lại sự hình thành tình đồng chí để mở ra một trang thơ mới – trang thơ của tình cảm thắm thiết, đáng quý giữa những người lính.

Tình đồng chí được gắn bó bằng cách hiểu những suy nghĩ và cảm xúc của nhau: Những người lính mới hôm qua với cày cuốc, nay đã nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc thân yêu, lên đường ra trận. Ruộng nương – thứ quý giá nhất của người nông dân, giờ phải “cử bạn thân đi cày”, nhà cửa cũng bị “gió lay” theo. Trong tâm trí họ chắc chắn có nỗi nhớ quê hương da diết. Nhưng tình yêu đất nước được đặt lên trên tất cả. Họ sẵn sàng gửi lại những gì quý giá nhất của cuộc đời để ra đi vì đại nghĩa. Hai từ “cho qua” đã thể hiện tinh thần lạc quan, quyết đoán của người lính. Tận tụy với quê hương nhưng không quên việc nước, quyết vì Tổ quốc nhưng vẫn không quên tình quê hương. Hai luồng khí thế yêu nước thương dân vẫn song hành trong lòng người chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh cho họ lên đường. Tác giả đã sử dụng một cách tinh tế hình ảnh “giếng nước gốc đa” – biểu tượng của làng quê Việt Nam để gợi hình ảnh quê hương. Nghệ thuật hoán dụ, nhân hoá đã góp phần diễn tả nỗi nhớ của người ở hậu phương gửi người ra tiền tuyến. Bút pháp hóa nỗi nhớ cũng gây ấn tượng mạnh với người đọc.

Tình đồng chí không chỉ là sự sẻ chia tâm tư mà còn là những lúc cùng nhau vượt qua khó khăn. Bộ đội thường phải đóng quân trong rừng sâu. Nơi đất hoang nước độc, các anh không chỉ khó khăn về vật chất mà còn phải chiến đấu với bệnh tật, trải qua những cơn sốt rét rừng hiểm nghèo: “ớn lạnh từng cơn” “đổ mồ hôi trán”. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng viết “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc/ Quân xanh lá oai hùm”. Cái đói, cơn sốt rét khiến nó không thể mọc tóc, da xanh như lá. Qua đó mới biết những khó khăn, thiếu thốn của quân đội ta trong quá khứ to lớn như thế nào. Tôi càng biết ơn và biết ơn hơn đối với những người lính đã hy sinh mạng sống của mình vì sự nghiệp vĩ đại của dân tộc.

Cuộc sống chiến đấu gian khổ cũng được tác giả miêu tả chân thực qua những câu thơ: Bằng những câu thơ gợi tả chân thực, cảm động và kĩ thuật liệt kê, đoạn thơ đã nói lên những gian khổ, thiếu thốn của người lính trong thời kì chống Pháp. Trong rừng sâu, giá rét mà họ cũng chỉ mặc những bộ quần áo mỏng manh “áo rách vai”, “quần vá”, “không giày”. Dù thiếu thốn nhưng tinh thần của người lính luôn lạc quan, dù áo rách, quần vá, giá rét nhưng trên môi người lính vẫn nở nụ cười.

Và giữa hoàn cảnh đói nghèo tứ bề, tình đồng đội vẫn luôn cháy bỏng “Thương nhau nắm tay nhau”. Hơi ấm từ bàn tay đồng đội đã tạo nên sức mạnh đưa người lính vượt qua giá rét, vượt qua gian khổ. Họ không giàu có về vật chất, chỉ có đôi bàn tay trắng, nhưng tình cảm của họ vẫn rất cao quý và thiêng liêng, dường như trong đau khổ, tinh thần đồng đội lại càng thắm thiết..

Tham Khảo Thêm:  phân tích bài thơ bếp lửa

Khổ thơ cuối tạo nên một biểu tượng đẹp đẽ về tình đồng đội. Vượt qua muôn vàn khó khăn, trái tim người lính vẫn hừng hực khí thế, đứng gác dù đêm khuya lạnh giá. Thái độ “chờ giặc” thể hiện sự chủ động, dũng cảm của người lính. Họ luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Câu thơ cuối khép lại bài thơ rất hay. Bài thơ vỏn vẹn 4 chữ, ngắn gọn, súc tích, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Lúc đó có lẽ đã về khuya, ánh trăng từ từ buông xuống như treo lơ lửng nơi đầu súng. Thật là một bức tranh đáng yêu! Trăng và súng là hình ảnh mang tính biểu tượng. Súng tượng trưng cho chiến tranh, nghĩa vụ, vầng trăng là hình ảnh thơ mộng, vẻ đẹp của cuộc sống. Trong chiến đấu gian khổ, người lính vẫn yêu đời, yêu vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên. Tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng vẫn không quên nhiệm vụ. Chất hiện thực xen lẫn chất thơ, chất thép xen lẫn chất thơ đã tạo nên hình tượng người lính xưa: hào hùng mà vẫn rất lãng mạn, vừa là chiến sĩ, vừa là thi sĩ. Hình ảnh vầng trăng còn là biểu tượng của hòa bình, của độc lập, của ngày mai tươi sáng. Đây cũng là nguyện vọng, mục tiêu của những người lính, mong Tổ quốc bình yên.

Với ca từ giản dị, chân thành, nhà thơ Chính Hữu đã đem đến cho kho tàng thơ chiến đấu một nét độc đáo. Chính Hữu viết về chiến tranh không bom đạn nhưng vẫn tạo được âm hưởng hào hùng, tự hào. Hình ảnh người lính bình dị nhưng vẫn rất đỗi anh hùng với tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng sẽ mãi in sâu trong lòng người đọc, để các thế hệ mai sau mãi ghi nhớ và tự hào về một thời khói lửa hào hùng.

Đề bài: Phân tích hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ qua bài thơ “Đồng chí”

  • PHÂN CÔNG
Trong bài thơ “Tuổi 25” Tố Hữu từng viết:
“Không có tất cả, tôi giàu can đảm
Sống không cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn tôi làm nô lệ, tôi lại làm anh hùng
Sức mạnh của nhân loại mạnh hơn bạo lực.”
Văn học giống như một cây bút nhiều màu, nó vẽ nên bức tranh cuộc sống với những gam màu chân thực. Người nghệ sĩ đã dùng cả tấm lòng để “hút nhựa sống” để tưới mát cho cánh đồng văn chương. Trong lĩnh vực đó, có một không gian dành riêng cho văn học cách mạng, văn học của hiện thực tàn khốc nhưng cũng vô cùng tươi đẹp. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính luôn là hình ảnh cao quý và đẹp đẽ nhất. Hình ảnh ấy đã đi vào lòng người và văn học với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm viết về tình cảm anh bộ đội cụ Hồ sớm nhất, tiêu biểu nhất và thành công nhất là bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ, sâu sắc cũng như những trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã thể hiện sâu sắc tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó của những người lính trong cuộc kháng chiến.
Bài thơ ra đời năm 1948, khi Chính Hữu đang là chính trị viên đại đội ở Trung đoàn Thủ đô. Với tiết tấu trầm lắng mà vui tươi; Ngôn ngữ giản dị đời thường dường như đã trở thành những vần thơ yêu thương, ngưỡng vọng, đồng cảm sâu sắc của người chiến sĩ cách mạng làm thơ. Trong những năm tháng gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp, tất nhiên hình ảnh những người lính, những người lính sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc.
Ngòi bút tài hoa của Chính Hữu, cùng với những câu thơ tự do, giọng điệu tâm tình, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, Chính Hữu từng bước dẫn người đọc đến cơ sở hình thành tình đồng chí:
“Quê tôi nước chua mặn ngọt
Làng tôi đất cằn sỏi đá cày lên”
Giọng điệu thủ thỉ như kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại những kỷ niệm ngày đầu gặp nhau. Họ đều là những người con của những vùng quê nghèo, những nông dân nơi “ruộng chua đồng chua” hay nơi “cày trên sỏi đá”. Hình ảnh “quê anh” và “làng em” hiện lên với bao nỗi nhọc nhằn dù nhà thơ không chú trọng miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là một danh từ chung chung trở nên cụ thể đến mức dễ nhận thấy, nhất là trong mắt người dân làng quê Việt Nam.
Chẳng phải cội nguồn anh em đã tạo bệ phóng cho tình đồng chí hay sao?
“Anh ấy đôi khi xa lạ với tôi
Theo tự nhiên, chúng ta không gặp nhau.”
Lời thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như lời chào. Họ hiểu nhau, thương nhau, chia sẻ với nhau bằng tình cảm tương thân tương ái lâu đời giữa những người nông dân. Nhưng “từ trên trời rơi xuống” họ đến đây không phải vì nghèo khó mà vì họ có chung một lý tưởng, cùng một mục đích cao cả. Nhân dân các nước tập hợp lại trong hàng ngũ của quân cách mạng và chính trên cơ sở đồng cảm giai cấp, cùng hoàn cảnh mà họ dễ dàng kết thân với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “Nhớ” cũng bày tỏ tình cảm này:
“Chúng tôi là những người từ khắp nơi trên thế giới
Khi tôi gặp bạn, tôi không biết chữ
Ta biết nhau từ ngày một ngày hai
Súng không quen quân mười mục
Lòng vẫn cười kháng chiến”
Những người xa lạ gặp nhau để kết thành một tình đồng chí. Trước hết, tình đồng chí nảy sinh từ nghĩa vụ chung kề vai sát cánh chiến đấu.
Có lẽ cùng chung một đời chiến đấu gian khổ dưới chiến hào vì độc lập, tự do của dân tộc mà từ bao giờ các anh đã trở thành tri kỷ của nhau:
“Súng kề súng, đối đầu
Đêm lạnh chung chăn thành tri kỷ”
“Súng có súng” là cách nói ngắn gọn, tượng trưng: cùng chung lý tưởng chiến đấu; “Tôi và bạn” cùng ra trận để bảo vệ Tổ quốc, vì độc lập, tự do và sự tồn vong của dân tộc. “Kề đầu” là hình ảnh diễn tả tâm đầu ý hợp của người tri kỷ. Câu thơ “Đêm lạnh chung chăn đôi bạn” là một câu thơ hay, cảm động, đầy kỉ niệm của một thời khốn khó. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỷ”. “Cặp đôi tri kỉ” là những người bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu để trở thành bạn tâm giao, sau này trở thành đồng chí! Câu 7, 8 chữ đột ngột rút ngắn hai chữ “đồng chí” để diễn tả niềm xúc động tự hào ngân nga mãi trong lòng. Cảm động nghĩ đến một tình bạn đẹp. Tự hào về tình đồng chí cao cả, thiêng liêng, cùng chung lý tưởng chiến đấu của những người lính là dân cày yêu nước ra trận.
Điều gì đã khiến những kẻ quanh năm chỉ quen cày cuốc lại hăng hái cầm súng ra trận? Điều gì khiến những chiếc xe không kính lao vun vút ngày đêm trong mưa bom bão đạn? Điều gì đã khiến những cô gái vốn yếu mềm lại có thể trơ tráo chạm tay vào cái chết vô hình từ bom đạn? Đó là lòng trung với quê hương, với ruộng nương, với vợ con:
“Ruộng tôi sai bạn thân cày
Nhà không để gió lay”.
Nhà phê bình Nguyễn Đức Quyền nhận xét: Ngoài mặt trận, biết gió lay từng cây cột nhà, không lời nào diễn tả được tình cảm tha thiết của họ đối với gia đình. Vì vậy, ai lại không muốn sống hạnh phúc, bình yên trong mái ấm gia đình? Nhưng vì đại nghĩa, họ đã ra đi không tiếc mạng sống, bỏ lại tất cả những gì thân yêu nhất. Cũng như vậy, khi biết “giếng nước gốc nhớ lính” chứng tỏ họ đang nhớ quê hương, thương người! Sự đồng cảm sâu sắc ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho những người lính trên hành trình chiến đấu.
Không chỉ thấu hiểu, đồng cảm, các anh còn chia sẻ những thiếu thốn, gian khổ, niềm vui nơi chiến hào:
“Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run mồ hôi trán
Áo em rách vai
quần của tôi có một số miếng vá
nụ cười băng giá
không có giày
Một vài tay cầm bị thương”
Đoạn thơ mang phong cách hiện thực, hình ảnh đối xứng “anh – em”, “áo anh – quần em” tạo nên sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ. Trong cảnh nghèo khó, các anh cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cùng trải qua những cơn sốt rét kinh hoàng, cùng chia sẻ những thiếu thốn vật chất, bằng sự lạc quan “miệng cóng”, bằng tình yêu thương. tình yêu gắn bó “tay nắm tay yêu nhau”. Khó khăn, khắc nghiệt là thế, hiện thực chiến tranh với căn bệnh sốt rét rừng đã được nhiều nhà thơ miêu tả trong các tác phẩm của mình:
“Nơi thuốc súng hòa áo trận
Cơn sốt rừng đi cùng tuổi trẻ”
(Nguyễn Đức Mậu)
Vậy mà những người lính ta vẫn lạc quan, vẫn tin tưởng, không chùn bước trước bất cứ điều gì. Hình ảnh “miệng đông cứng” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh, xua tan sự khắc nghiệt của chiến trường. Anh em nắm tay nhau truyền hơi ấm, động viên nhau vượt qua gian khổ. Hiếm lắm mới thấy cái bắt tay nồng ấm như vậy!
Chính Hữu với những nét vẽ giản dị, mộc mạc đã vẽ nên một bức tranh đẹp giữa hoàn cảnh khắc nghiệt: hình ảnh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm thanh vắng:
“Đêm nay rừng hoang mù sương
Sát cánh bên nhau chờ quân thù tới
Đầu súng trăng treo”.
Ba câu thơ nói lên nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay – rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí trong gian khó, là tinh thần sẵn sàng ra trận: “kề vai nhau đợi giặc tới”. Đó chính là hồn thơ của anh Vệ Quốc Quân và ý nghĩa cao cả của cuộc chiến đấu “trăng treo đầu súng” của chúng ta. Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích địch, chuẩn bị chiến đấu giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến những người lính không thể nào quên. Anh em xung kích tích cực chờ giặc trong hoàn cảnh khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối” “Kề vai sát cánh chờ giặc tới”. Anh em chờ giặc đến là chờ thời khắc căng thẳng khi ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Từ “chờ đợi” vừa thể hiện tư thế chủ động của người lính trong đêm mai phục, cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Đọc thơ Chính Hữu cho ta cảm giác như hơi ấm đang tỏa ra khắp cơ thể, khắp không gian. Phải chăng sự ấm áp ấy bắt nguồn từ những tình cảm chân chất, mộc mạc, giản dị trong thơ Chính Hữu? Dù câu thơ cuối cùng đã kết thúc tác phẩm nhưng với tôi đó là một dư âm không bao giờ dứt:
“Đầu súng trăng treo”
Bài thơ vừa thực vừa ảo gợi cho ta nhiều cảm xúc mới lạ. Khoảng cách giữa trời và đất, giữa con người và thiên nhiên đã được một chữ treo kéo lại gần hơn. Đó là sự kết hợp giữa lối viết hiện thực và lãng mạn vừa xa vừa gần. Phải chăng câu thơ là niềm mong ước, hi vọng của Chính Hữu – Bộ đội Cụ Hồ về cuộc sống thanh bình tươi đẹp? Sau đêm nay, sau những giờ khắc căng thẳng, lạnh giá này, sẽ là một buổi sáng ấm áp với bình minh rực rỡ. Người lính với sứ mệnh đã trở thành nhà thơ với biết bao cảm hứng. Hình ảnh cây súng trong bài thơ Đồng chí làm ta liên tưởng đến dòng sông Mã, Tây Tiến trong câu thơ của Quang Dũng:
“Lợn hút rượu, súng ngửi trời”
Thật vinh dự và quý giá biết bao khi trong những thời máu lửa hào hùng ấy vẫn còn có những vần thơ hay, đẹp và hay như thế!
Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của các chi tiết hình ảnh, sự uyển chuyển của nhịp điệu câu thơ, bài thơ đã khắc họa và tôn vinh vẻ đẹp, phẩm cách đáng quý của anh bộ đội cụ Hồ, của tình đồng đội. Tình đồng chí, đồng đội bền chặt keo sơn, hòa chung với cảm hứng lãng mạn cách mạng của văn học chống Pháp. Nhà văn Nga Erenbua đã viết: Lòng yêu nước bắt đầu từ tình yêu những điều bình thường nhất. Yêu hàng cây trồng trước ngõ, yêu con đường nhỏ ra bờ sông, yêu những đứa con vùng biển… Đúng vậy, tình cảm anh bộ đội Cụ Hồ cũng bắt nguồn từ những gì mộc mạc, chân thành và gần gũi nhất. Yêu ngôi nhà, yêu mảnh vườn, cây đa, giếng nước, yêu con người… Đó là yêu Tổ quốc!
Lịch sử đã sang trang mới nhưng có lẽ hình ảnh những người nông dân mặc quân phục sẽ sống mãi trong lòng các thế hệ mai sau. Vẻ đẹp của bạn, thần thái của bạn sẽ không bị bụi thời gian cuốn đi:
“Nếu bạn có thể làm một hạt giống cho mùa tới
Nếu lịch sử chọn tôi làm điểm tựa
Còn gì vui hơn khi được làm lính đầu tiên
Trong đêm tối, tim tôi là ngọn lửa”
(Chào Xuân 67- Tố Hữu)
Bài viết của Tổ chuyên môn HVCH

Bài 3:

Tôi vẫn hành quân
Lên đường đi chiến dịch”
(Trần Hữu Thung)
Hình ảnh người lính từ lâu đã đi vào văn học, thơ ca với những tình cảm, phẩm chất cao đẹp như thế. Nhiều tác giả đã viết về người lính. Mỗi người đều có giọng văn riêng, cách hành văn riêng để làm nên tên tuổi của mình. Và Chính Hữu – người trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước cũng vậy, ông dồn hết tâm tư, tình cảm để viết “Đồng chí”. Tác phẩm đã xúc động miêu tả tình đồng chí thiêng liêng và xứng đáng là một bài thơ trữ tình hay trong nền văn học Việt Nam.
Đến với Đồng Chí là đến với một bức tranh chân thực về vùng núi biên giới nhưng thấm đượm tình đồng chí qua lối viết giản dị, mộc mạc. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài tiêu biểu và thành công nhất của tác giả Chính Hữu. Bài thơ được viết và in lần đầu trên báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những kinh nghiệm của Chính Hữu và đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh thắng chiến tranh. cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.
Với thể thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng về người lính trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp và tình đồng chí thân thiết giữa những người anh em. Ngòi bút tài hoa của Chính Hữu với những câu thơ tự do, giọng điệu tâm tình, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên Chính Hữu từng bước dẫn dắt người đọc đến cơ sở hình thành tình đồng chí:
Quê hương tôi nước mặn chua ngọt
Làng tôi đất cằn sỏi đá cày lên”
Hai câu đầu với cấu trúc câu song hành, thành ngữ dân gian “ruộng chua nước mặn”, cách nói sáng tạo từ câu tục ngữ “Đất cày lên đá”, giọng thơ như thủ thỉ với cảnh hai người lính ngồi. Kể cho nhau nghe về quê hương của bạn. Đó là những vùng quê nghèo, lam lũ: một người ở “ruộng chua nước mặn”, một người ở trung du “cày lên sỏi đá”. Chẳng phải cội nguồn anh em đã tạo bệ phóng cho tình đồng chí sao?
Từ những miền quê nghèo ấy, họ tạm biệt những người thân yêu, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, bãi cỏ xanh, họ đã lên đường chiến đấu để tìm lại linh hồn của Tơ. quốc gia. Những khó khăn ấy dường như không làm những người lính chùn bước:
Anh ấy đôi khi xa lạ với tôi
Theo tự nhiên, chúng ta không gặp nhau.”
Xuyên suốt bài thơ, người đọc cảm nhận được giọng thơ mộc mạc, chân chất như lời thủ thỉ tự sự về cuộc đời, về những người lính áo nâu quần một mình đứng lên đấu tranh cho tự do. quê hương. Họ là những con người bình dị, chân chất, cùng chung cảnh nghèo, vì lý tưởng, họ đã không phí thời gian vội vã gặp nhau.
Đến với bài thơ “Tôi và anh là đôi người xa lạ”, tác giả không dùng từ “hai” mà nói: “đôi”. Thông thường từ “đôi” thường đi liền với các danh từ như “đôi đũa”, “con chim”. Đã là “đôi lứa” nghĩa là phải luôn gắn bó, keo sơn với nhau, Chính Hữu âu yếm dùng từ này để khẳng định tình bạn giữa hai người, đồng thời làm cho lời thơ thêm bình dị, gần gũi với đời thường. Tuy nhiên, đời thường không tầm thường, thô thiển bởi tác giả đã khéo léo lựa chọn đưa ngôn ngữ đời thường vào ngôn ngữ văn chương. Trong bài thơ, hai lần tác giả sử dụng cụm từ “anh và em”. “Anh với em” là nhìn nhau, nhận diện nhau để nhận ra chính mình. Cũng có những lúc “bạn” và “tôi” bị tách rời. Những lúc ấy, “anh” và “tôi” vẫn vậy, vẫn dễ gần. Tôi và anh cũng vậy, đều là những người lính dãi nắng dầm mưa, gai góc bùn lầy, mặt mũi cũng khói súng, mịt mù trận mạc, có khác gì nhau! Nghệ thuật tài tình của Chính Hữu có lẽ là ở đây.
Những người lính với lý tưởng sống cao đẹp đến với cách mạng vì mong muốn đất nước được hòa bình, độc lập. Cùng chung chí hướng, cùng chung lý tưởng, cùng chung niềm tin, khi chiến đấu lại kề vai sát cánh chung một chiến hào… Dường như tình đồng đội cũng bắt nguồn từ những điểm chung nhỏ nhặt ấy. Lời ca nhanh hơn, nhịp điệu nhanh hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
“Súng bên súng kề đầu
Đêm lạnh chung chăn thành tri kỷ
Các đồng chí!…
Hàng loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ đến tận cùng cảm xúc mà sự ngắt nhịp đột ngột, giọng điệu hơi trầm và âm vang lạ lùng cũng làm nên tình đồng chí. đẹp hơn, quý phái hơn. Câu thơ chỉ có hai chữ nhưng âm điệu lạ tai đã tạo nên một nốt nhạc ấm áp, thân thương trong lòng người đọc.
Trong muôn vàn cung bậc của tình cảm con người, phải chăng tình đồng chí là lý tưởng cao đẹp nhất, nhịp thở của bài thơ nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng mỏng hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào hồn thơ tình đồng chí thắm thiết, gắn bó và một âm vang bất diệt khiến cho bài thơ mãi mãi trở thành một mảng đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Kỷ niệm người lính, kỷ niệm riêng thì vô tận:
Những cánh đồng tôi gửi bạn thân của tôi để cày
Ngôi nhà không để gió lay
Bản chất nông dân chất phác của những người lính mới đáng quý biết bao! Đối với người nông dân, ruộng vườn và nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống trên những cánh đồng, họ lớn lên trong tiếng hát du dương của bà ngoại. Họ lớn lên trong những ngôi nhà không để gió lay. Tuy nhiên, họ vẫn yêu và mến những vùng đất thân quen, những ngôi nhà thân quen nhưng họ đã vượt qua chân trời của cái tôi nhỏ bé của mình để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo nguyện vọng, đi theo tiếng gọi thân thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng bao bóng hình quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ không nguôi của mỗi người lính. Dù thế nào đi chăng nữa, trong lòng họ hình ảnh quê hương vẫn bao phủ như muốn ôm trọn vào lòng những kỷ niệm.
Không liệt kê, cũng không đảo ngữ thường thấy trong thơ, nhưng hai câu thơ đủ sức lay động hồn thơ và người: “Giếng nước nhớ người lính”. Nỗi nhớ quê hương với những người con trai đã ra đi càng làm cho hồn quê thêm sức sống. Nhà thơ nhân cách hóa giếng nước gốc cũng có nỗi nhớ da diết về người lính. Nhưng không nói đến những đồ vật vô tri vô giác, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để thể hiện nỗi nhớ nhung da diết, nhớ nhung da diết của những người ở nhà. của mẹ với con, của vợ với chồng, của những đôi trai gái yêu nhau… Để lại nỗi nhớ thương, nỗi nhớ quê hương của những người lính chiến đấu gian khổ:
“Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt, đổ mồ hôi trán
Áo em rách vai
quần của tôi có một số miếng vá
nụ cười băng giá
không có giày”
Câu thơ chậm rãi vang lên nhưng lại bị ngắt quãng, có lẽ chính những gian khổ, thiếu thốn của người lính đã làm cho nhịp thơ của Chính Hữu thêm sâu lắng. Đất nước ta còn nghèo, bộ đội còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, lại phải đối mặt với sốt rét, cái rét về đêm… Chỉ với chiếc quần vá, chiếc áo rách, người lính vẫn vững vàng bám trụ. kháng cự, cho dù đó là một nụ cười lạnh lùng, im lặng. Tình đồng chí chân chính trong gian khổ càng sáng ngời, gần gũi mà chân thật, không giả dối, cao đẹp… Tình cảm ấy lan tỏa trong trái tim mỗi người lính. tình đồng chí:
“Là một hớp nước uống với nhau, một nắm gạo bẻ đôi,
Là sẻ chia một chiều nắng, một chiều mưa,
Chia sẻ một mẩu tin tức giữa các bạn,
Chia nhau đứng trong hào hẹp
Chia sẻ cuộc sống của bạn, chia sẻ cái chết của bạn.”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin chắc chắn sẽ chiến thắng, một tình cảm chân thành đã được cô bạn thể hiện ngay chính chỉ bằng một nụ cười – biểu tượng của người lính trong chiến trận, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ Quốc, nụ cười. một nụ cười kiêu sa yêu đời, một nụ cười lạc quan chiến thắng…
Đêm nay rừng hoang sương muối
Sát cánh bên nhau chờ quân thù tới
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 – 2/2/3 cô đọng tất cả vẻ đẹp của người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp sáng ngời trong gian khổ của người lính. Trên tất cả, tình đồng chí, đồng đội như được sưởi ấm bởi những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn hiên ngang canh giữ bầu trời Việt Nam dù đêm mịt mùng, sương đã buông, đêm cũng đã chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng đẹp hơn, thơ mộng hơn. Sát cánh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Nhìn vào tính chân thực của toàn bài thơ, câu thơ cuối vẫn trở nên rất thi vị: “Đầu súng trăng treo”. Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
“Trong cuộc chiến trong rừng
mặt trăng trở thành một bộ ba”
(Ánh trăng – Nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng chân thật và trữ tình. Một sự hòa quyện giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Hiện thực đan xen với ước mơ, dũng khí chiến đấu đan xen với tình yêu thương khiến cho biểu tượng người lính không chỉ hiện thực mà còn rực rỡ lạ lùng. Lính hòa vào thơ, trữ tình hòa vào Cách mạng, thép hòa vào thơ. Sự rung động, xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng vậy, lan tỏa trong không gian, làm dịu đi nỗi nhớ, làm dịu đi cái lạnh của đêm. Nụ cười của người lính như cất lên tiếng ca ngợi tình đồng chí. Thật thiêng liêng biết bao, hình ảnh những người lính, những người lính kề vai sát cánh bên nhau trong chiến hào đấu tranh giành độc lập.
Với thể thơ tự do, điệp ngữ, ẩn dụ, những hình ảnh giản dị mà giàu sức gợi, bài thơ là một tình cảm thiêng liêng, một tình yêu lớn, trong lớn nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bởi một sợi dây yêu thương vô hình.
Bài thơ của đồng chí với ngôn ngữ chân phương, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của người chiến sĩ đã làm rung động biết bao trái tim người đọc. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, mai sau và mãi mãi về sau.

Bài 4:

Đề tài:
Nhận xét về bài thơ “Đồng chí”, có ý kiến ​​cho rằng bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội sâu nặng của những người chiến sĩ cách mạng mà đa số là người xa quê, đồng thời bài thơ cũng thể hiện một hình ảnh chân thực giản dị mà cao cả của người lính trong thời kỳ đầu kháng chiến. Bằng kiến ​​thức đã học, hãy làm sáng tỏ ý kiến ​​trên.
Phân công:
Văn học nói chung, thơ ca nói riêng, với sứ mệnh kỳ diệu của nó, không bao giờ xa rời hiện thực mà luôn vẽ nên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Đối với văn, thơ trong thời kỳ kháng chiến, đó là hiện thực của cuộc đấu tranh bền bỉ, gian khổ. Tuy nhiên, trong cuộc chiến khốc liệt ấy vẫn có những sắc màu lãng mạn xuất hiện. Đến với bài thơ “Đồng chí”, ngoài hiện thực dữ dội còn là vẻ đẹp của tình đồng chí thiêng liêng. Nhận xét về bài thơ, có ý kiến ​​cho rằng “bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội sâu nặng của những người chiến sĩ cách mạng mà phần lớn đều xuất thân từ nông thôn. Đồng thời, bài thơ thể hiện hình ảnh chân thực, giản dị của người lính trong chiến tranh”. thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến.
Đó là một dụng ý hoàn toàn xác đáng, nó khẳng định và làm nổi bật nội dung tư tưởng của toàn bài thơ. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Bài thơ được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời, cũng được coi là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946-1954, nó đã làm bừng sáng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Trước hết, bài thơ cho ta thấy xuất thân của những người lính, “đa số xuất thân từ quê”. Điều này được thể hiện trong câu thơ:
Quê hương tôi nước mặn chua ngọt
Làng tôi đất cằn sỏi đá cày lên”
Hai dòng thơ song song, đối ứng thành một cặp, lời ca giản dị, dân dã như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nước mặn, ruộng chua gợi nhớ vùng đất cằn cỗi, khó canh tác. Nó gợi cho ta nhớ về vùng quê nghèo khó, vất vả. Như vậy, những người lính đều xuất thân từ nông dân chân lấm tay bùn, ra đi từ những miền quê nghèo.
Tuy nhiên, họ đã gặp nhau ở đây, tại chiến trường. Họ chính là hiện thân tiêu biểu cho hình ảnh người lính trung thực, giản dị mà cao quý trong thời kỳ đầu kháng chiến. Trước hết, ở trường học, tinh thần đồng chí, đồng đội sâu sắc luôn tỏa sáng. Cơ sở để hình thành tình đồng chí là dựa trên những điểm tương đồng sâu sắc.
Chính hoàn cảnh xuất thân nghèo khó ấy là cơ sở của tình cảm giai cấp của người chiến sĩ cách mạng. Hơn thế nữa, đó là sự kết hợp trọn vẹn cả lý trí, lý tưởng và mục đích cao cả: đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Họ đã cùng nhau chiến đấu vì cùng một mục tiêu lý tưởng là đánh giặc cứu nước: “Súng kề đầu, súng kề đầu”. Tình đồng chí cũng nảy nở và trở nên bền chặt trong sự đồng điệu, sẻ chia mọi khó khăn gian khổ, vui buồn. Đó là tình tri kỉ của những người bạn thân được thể hiện bằng hình ảnh cụ thể, giản dị nhưng rất gợi cảm: “Đêm lạnh bên nhau như đôi tri kỷ”. Từ đó, hai tiếng “Đồng chí” cát lên rất đỗi thân thương. Câu thơ hai giọng là lời giải thích nhưng cũng là phát hiện của nhà thơ về cội nguồn hình thành tình bạn tri kỷ, tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân. Pháp.
Tình đồng chí đó cũng có những biểu hiện rất sâu sắc. Họ chia sẻ nỗi nhớ. Tình đồng chí đó là sự thấu hiểu sâu sắc những tâm tư, tình cảm thầm kín của nhau:
“Ruộng tôi sai bạn thân cày
Ngôi nhà không để gió lay
Nhất gốc giếng nước nhớ người lính
Những người lính hiểu lòng nhau, đồng cảm sâu sắc với nhau, họ có cùng suy nghĩ, cùng nỗi nhớ: nhớ gốc đa, nhớ bến nước, sân đình, người thương…
Họ không chỉ chia sẻ niềm vui, nỗi buồn hay những câu chuyện xúc động về quê hương, mà họ còn chia sẻ những gian khổ, thiếu thốn của đời lính “sốt run mồ hôi trên trán”. Hình ảnh chân thực từ cuộc sống bình dị, mộc mạc và giọng thơ dân gian, câu thơ song hành, đối ứng. Họ cùng nhau chia sẻ những gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật của đời quân ngũ. Vì tình đồng chí tạo cho họ một tinh thần lạc quan, vui vẻ, tình yêu thương nhau sâu sắc, chân thành: Áo anh rách
quần của tôi có một số miếng vá
nụ cười băng giá
không có giày
Một số nắm tay bị thương!
Đáng chú ý là người lính luôn nhìn bạn, nói về bjan trước khi nói về mình, từ “anh” luôn xuất hiện trước từ “tôi”. Phải chăng cách nói ấy thể hiện nét đẹp trong tình người như thể thương mình, coi trọng người khác hơn chính mình.
Khắc sâu trong tâm trí người đọc còn là hình ảnh những người lính với tinh thần lạc quan, tâm hồn lãng mạn:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Sát cánh bên nhau chờ quân thù tới
Đầu súng trăng treo.
Trên cái nền hùng vĩ, khắc nghiệt của thiên nhiên: Trong cảnh “rừng hoang sương muối” – mùa đông rừng Việt Bắc sương muối bao phủ, nhưng những người lính vẫn kề vai sát cánh, im lặng, chờ quân thù phục kích. Kế tiếp. Hình ảnh người lính, khẩu súng, vầng trăng gắn kết với nhau tạo nên chất lãng mạn trong một khung cảnh thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Đây là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tình người ấm áp khiến người lính quên đi cái lạnh và say đắm vẻ đẹp của rừng cây về đêm dưới ánh trăng. Rừng sương muối diễn tả những gian khổ của đời người lính. Hình ảnh đầu súng trăng treo khắc họa nhiệm vụ chiến đấu và tâm hồn lãng mạn của người lính. Nó gợi ra những liên tưởng phong phú giữa thực và mộng, người lính và thi nhân, gần và xa…
Như vậy, với những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, giàu sức biểu cảm, bài thơ đã khắc họa thành công tình đồng chí, đồng đội sâu nặng, thủy chung của người chiến sĩ cách mạng. mạng. Đồng thời cũng thể hiện chân thực, giản dị mà cao đẹp hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Tham Khảo Thêm:  miêu tả ngôi nhà bằng tiếng anh

Related Posts

phân tích đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích

Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là một trong những kiệt tác thơ ca trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong đó, đoạn trích…

cảm nhận bài thơ đoàn thuyền đánh cá

Huy Cận là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận thường viết…

phân tích bài thơ sang thu của hữu thỉnh

Bạn đang xem: 50+ bài văn mẫu Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh | Các bài văn mẫu lớp 9 TRONG pgddttramtau.edu.vn Tổng hợp…

dàn ý đây thôn vĩ dạ

Bài viết Hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài Đây Thôn Vĩ Dạ và bài Phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của nhà thơ…

phân tích khổ cuối bài thơ về tiểu đội xe không kính

Đề tài: Đoạn văn về khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính Đoạn văn về khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội…

kể lại một trải nghiệm của bản thân

Cuộc sống đầy rẫy những thử thách. Qua trải nghiệm, con người sẽ trưởng thành hơn khi học được nhiều bài học quý giá. Vì vậy, bài…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *