Phân tích bài Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh
Dạy
Không chỉ sau này, Côn Lôn hay Côn Đảo được nhắc đến như một cái tên gắn liền với khí phách, lòng quả cảm, anh dũng của những người lính đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Ngay từ những năm đầu thế kỷ, khi thực dân Pháp vừa đặt xong ách thống trị ở nước ta, cùng với việc hoàn thiện bộ máy cai trị, chúng đã biến Côn Lôn thành nơi giam giữ những người tù cách mạng. Cuộc kháng chiến oanh liệt của nhân dân ta luôn là sức mạnh to lớn mà kẻ thù luôn phải khủng bố, đối phó và đàn áp. Cùng với những cái tên như Sơn La, Lao Bảo…, Côn Lôn còn là nơi ghi dấu tội ác dã man của đế quốc, nỗi đau đớn, chết chóc của người tù: Ngọn roi đế quốc nhưng báng súng xé da cắt thịt. hy sinh của những người lưu vong…
Nhưng trong bài Đập Đá ở Côn Lôn của nhà thơ, chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, ngoài hai chữ Côn Lôn ra, dường như không còn từ nào khác để nói về cảnh tù đày, giam cầm. Ai đã một lần đến Côn Lôn, nhìn những căn hầm, chuồng cọp, những dinh thự dành cho cai ngục, chúa đảo… xây bằng đá kiên cố – nhiều công trình ngày nay đã trở thành di tích lịch sử – hẳn không khỏi hình dung. Bằng mồ hôi xương máu của biết bao thế hệ tù binh xây dựng nên dưới làn roi súng đạn của quân thù. Công việc phá đá vất vả đó được nhắc đến trong bài thơ với giọng điệu bình thản, tự chủ:
Làm trai đứng giữa Côn Lôn
Không một bóng dáng tù nhân, mà trái lại, là tư thế kiêu hãnh của một con người ý thức rõ về mình, đã là người, thời ấy, chỉ những kẻ biết sống nghĩa, mới biết hiến dâng đời mình cho một nguyên nhân cao quý có thể nói về nó, về nam tính của con người. Chính vì mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc mà người thanh niên phải đi Côn Lôn và lâm vào cảnh tù đày, nhưng với anh đó là chuyện bình thường. Thậm chí, câu thơ dường như vẫn phảng phất nét tự hào, kiêu hãnh: “Ta đứng giữa đất Côn Lôn”, đứng trong tư thế đối mặt với quân thù, ngay nơi quân thù tưởng có thể giam cầm, khốn kiếp, có thể làm cho bạn phục tùng, sợ hãi. Không chỉ vậy, ngay tại nơi đó, các sĩ phu yêu nước vẫn làm được những chuyện “kinh thiên động địa”.
Magnificent làm cho núi tuyết lở
Theo luật thơ Đường, hai câu đầu (thường gọi là hai câu “đề”) rất quan trọng, nó vừa phải nêu được ý chung của cả bài thơ, vừa phải mơ ra được điều sẽ nói một cách rõ ràng, sâu sắc. . hơn trong các câu sau. Ở đây, “đề tài”, vừa nêu đầy đủ những sự việc chính sẽ nói đến trong bài: đập đá (là đá núi: “núi lở”) ở đất Côn Lôn, vừa thể hiện tư thế, khí phách. niềm kiêu hãnh chủ động của con người: đứng giữa… lừng lẫy làm nên… Đồng thời, giọng điệu nhẹ nhàng, trâng tráo của nó cũng giúp ta nhận ra cái “thơ miệng” thường thấy trong thơ ca của ông cha ta ngày xưa. quá khứ. . Loại thơ này thường viết về một sự việc bình thường, một sự việc bình thường, đôi khi rất nhỏ nhặt. Nó gửi gắm trong đó một triết lý, một suy tư, đôi khi là cả lý tưởng sống của tác giả (như bài hát của Tùng). Nguyễn Trãi thế kỷ XV, một số thơ Lê Thánh Tông, Nguyễn Công Trứ…) và gần đây là thơ trong tù của các sĩ phu yêu nước, loại thơ này thường có hai nghĩa: một là hiện thực, một là hàm ẩn, là tài hoa. của các nhà thơ thuộc thể loại thơ này là luôn tìm những từ ngữ, hình ảnh thể hiện đầy đủ, sinh động cả hai nghĩa. Trong các câu sau (hai câu “thực” có nhiệm vụ giải thích và miêu tả trực tiếp điều mà hai câu “hỏi” đã nêu ra, hai câu “nghị luận” mơ mộng để nâng cao điều đó) ta còn bắt gặp chủ đề “đập đá” với những chi tiết rất cụ thể: cái búa, bàn tay…, năm bảy cọc, mấy trăm hòn đá… có thể hình dung rõ nét công việc gian khổ, hoàn toàn thủ công của người tù, tay cầm búa. Ở đây phải thấy vần là tư thế chủ động, là sức tấn công của người tù: Vác búa đập…, Đập phá… những “đống”, những “cù lao” ấy cũng là hình ảnh ẩn dụ về người tù. ách thống trị bất công, áp bức của kẻ thù. Sự nghiệp yêu nước thương dân của người chiến sĩ không bị gián đoạn vì bị địch tù đày. Giống Phan Bội Châu viết: Mỏi chân thì ở tù… Nhà tù đế quốc phong kiến chỉ là nơi rèn luyện phẩm chất, tinh thần của kẻ sĩ. Nắng mưa gian khổ chỉ hun đúc thêm tấm thân người sành sỏi, tấm lòng sắt đá của người thợ phá đá. Đến hai câu “nghị luận” (câu 5 và câu trong bài), lớp từ đầu tiên liên quan đến việc “đập đá” đã mờ đi, tuy vẫn giữ được sự liên kết logic chặt chẽ (“sành” mới là khó nhất). phần đá được mài dũa theo năm tháng, cũng như phần “sắt đá” thuộc tính bền vững của đá đã được nâng lên thành hình?). Hai câu thơ như nắng xuân, chắc nịch, một lời thề từ trái tim đến trái tim. Rồi đến hai câu kết (đáng lẽ là khép bài thơ, nhưng chỉ là khép lời và mở ý, như một nhà thơ đời Đường bên Trung Quốc đã nói… phần mở đầu như tiếng pháo nổ mà âm vang). rõ ràng, kết thúc giống như một đánh đập). Trong tiếng chuông ngân xa xa, hình ảnh những con người “đập đá” đã được nâng lên thành hình ảnh vĩ đại cao cả của những con người làm công cuộc thay đổi vũ trụ, những người vá trời. Thế nên, bên cạnh những mối lo lớn cho dân tộc, cho đất nước, những khổ cực, tù đày cũng chỉ là chuyện vặt, làm sao chúng có thể rũ bỏ và lay chuyển được mọi người! đá đóng dấu (volt đã phai lớp nghĩa đầu), mất hẳn, chỉ còn cặp sừng và cặp sừng là đẹp và hình tượng con người điềm đạm, tự tại, bất khuất, kiên cường. Khí phách trong bài “Đập đá Côn Lôn” cũng chính là khí phách tiêu biểu cho truyền thống anh hùng, kiên cường của dân tộc Việt Nam mà sau này ta thấy trong thơ văn yêu nước của các chiến sĩ cộng sản trong tù. trong đó tiêu biểu là Nhật ký trong tù của Bác Hồ.
Trong cuộc đời hoạt động yêu nước: Cũng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh luôn ý thức được sức mạnh to lớn của văn chương, nhiều tác phẩm được ông viết với mục đích tuyên truyền kêu gọi đấu tranh. Tài năng và lòng yêu nước cháy bỏng của Phan Châu Trinh cũng như Phan Bội Châu đã làm cho những tác phẩm mà họ để lại có giá trị và có sức sống lâu bền của những áng văn chương lớn. Riêng bài “Đập đá ở Côn Lôn”, có lẽ khi viết, nhà thơ đã không tính đến vấn đề niêm luật, không nhằm kêu gọi, tuyên truyền, thuyết phục ai… Bài thơ là tiếng nói của linh hồn, của không khí. bản lĩnh của con người trong một hoàn cảnh nhất định, nhưng chính tâm hồn, khí phách ấy tiêu biểu cho cả một thời đại, một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục. Vì vậy, bài thơ đã và sẽ có giá trị trường tồn với thời gian… Nhà tù Côn Đảo được mệnh danh là địa ngục trần gian, bơi trên một hòn đảo trơ trọi, giữa biển khơi, trong chế độ gia đình. Trong những nhà tù khắc nghiệt, những người bị đày ải sẽ bị bắt làm những công việc nặng nhọc như đập đá cho đến khi kiệt sức và nhiều người đã gục ngã.
Bài thơ thể hiện khí phách của một con người coi thường mọi gian khổ, nói về cuộc lao động khổ sai vô cùng gian khổ nhưng về một công việc chinh phục thiên nhiên dũng cảm, dũng cảm. huyền thoại.
2. Bốn câu thơ đầu có hai tầng nghĩa:
-Tư thế đứng của con người giữa đất trời: Thể hiện quan niệm nhân sinh truyền thống “ý chí làm trai” “Làm trai thì phải khác đời” (Phan Bội Châu), “Chí làm trai”. từ Nam, Bắc, Tây” (Phan Bội Châu). , Đồng – Cho sức vùng vẫy trong bốn bể” (Nguyễn Công Trứ),… Đó là lòng kiêu hãnh, là ý chí khẳng định mình, là khát vọng hành động mãnh liệt. Con người thể hiện chí làm trai: đứng giữa mảnh đất Côn Lôn, sừng sững giữa núi rộng, cao lớn, mặc trời đạp đất, hiên ngang hiên ngang.Từ câu thứ hai toát lên vẻ đẹp hùng vĩ.
-Miêu tả công việc đập đá: bằng những nét vẽ hào hoa để làm nổi bật sức mạnh to lớn của con người khổng lồ: dáng vẻ hiên ngang “lừng lẫy” như bước vào một trận chiến dữ dội; hành động là dứt khoát, có sức mạnh phi thường: “vác búa”, “xách”; Sức mạnh khủng khiếp, gần như thần kỳ: “làm lở núi”, “đập năm bảy đống”, “đập trăm tảng đá”…
Đoạn thơ khắc họa hình ảnh người tù cách mạng trong tư thế vươn tới tầm cao vũ trụ, biến gian lao khổ sai thành chiến công dũng mãnh của con người có sức mạnh diệu kỳ.
3. Bốn câu thơ cuối tác giả bộc lộ trực tiếp cảm xúc, suy nghĩ của mình.
Đây là vũ khí của người anh hùng không bỏ cuộc hoàn toàn, bất chấp mọi khó khăn thử thách, luôn giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu. Vẻ đẹp tâm linh này kết hợp với tầm vóc uy nghiêm, hùng vĩ đã tạo nên một hình tượng hoành tráng, ấn tượng. Câu 5-6 là sự tương phản giữa thử thách gian khổ và gian khổ. không phải một sớm một chiều mà trường tồn theo năm tháng với sức chịu đựng dẻo dai, tính kiên trì và ý chí chiến đấu sắt đá của người chiến sĩ cách mạng.
Câu 7-8 là sự tương phản giữa ý chí lớn lao của những người dám mưu sự nghiệp cứu nước trong những năm đầu thế kỉ XX, khi đất nước đang lâm vào cảnh tăm tối do ách áp bức của thực dân Pháp. Tôi cũng tin vào sức mạnh của mọi người để làm điều đó. Những thử thách trên đường tranh đấu được Phan Châu Trinh coi là “chuyện trẻ con” không làm ông lúng túng.