Tổ chức bộ máy nhà nước rất chặt chẽ, cụ thể là quyền lực của vua càng mạnh thì cấp dưới càng dễ kiểm soát. Thời Trần, vua nắm mọi quyền hành, nhưng trên còn có Thái thượng hoàng
Tiếp sau nhà Lý (1009 – 1225), nhà Trần (1226 – 1400) là triều đại kéo dài 174 năm. Ngay khi thành lập nhà Trần đã chấm dứt tình trạng loạn lạc cuối thời Lý, khôi phục và củng cố chính quyền trung ương, lập lại trật tự chính trị – xã hội. Tiếp đó, vào nửa sau thế kỷ XIII, nhà Trần đã lãnh đạo quân dân Đại Việt lập nên vũ công chói lọi ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên (1258, 1285, 1287 – 1288).
Bạn đang xem: Vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước hiện đại
Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ nội dung về Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Trần nhằm giúp bạn đọc có thêm thông tin hữu ích khi tìm hiểu về nhà nước thời Trần.
Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Trần
Từ sơ đồ bộ máy nhà nước thời Trần Các quan sát sau đây có thể được thực hiện:
Tổ chức bộ máy nhà nước rất chặt chẽ, cụ thể là quyền lực của vua càng mạnh thì cấp dưới càng dễ kiểm soát.
Ở nhà Trần, Vua là người nắm mọi quyền lực, nhưng trên ông còn có Thái thượng hoàng – chế độ lưỡng đầu, hoàn toàn thừa nhận sự tồn tại của hai Vua, phân chia quyền lực để điều hành đất nước. Thời Trần, mọi chức vụ quan trọng trong triều cũng được giao cho các vương tôn quý tộc nhà Trần. Vì vậy, nhà Trần nắm chắc mọi việc trọng yếu trong triều, quyền lực tập trung vào tay nhà nước trung ương; Chế độ quân chủ tập quyền được củng cố thêm một bước.
Bộ máy địa phương: Sau khi trải qua hai lần cải cách, bộ máy chính quyền nhà Trần được chia thành 5 cấp: lộ – phủ – châu – huyện – xã. Thời Trần, các bậc tôn túc được phong tước vương, tước quận vương, còn các quan văn, võ thì được phong tước quốc công, tước hầu, v.v.
Ưu điểm và hạn chế của bộ máy nhà nước thời Trần
Thứ nhất: Ưu điểm
– Mọi chức vụ triều Trần đều giao cho các vương tôn quý tộc. Do đó, quyền lực tập trung vào tay nhà nước trung ương, củng cố sự ổn định của triều đại, đảm bảo sự thuần nhất của dòng họ và bảo vệ sự ổn định của ngai vàng.
– Bộ máy hành chính đã thể hiện tính thân dân. Nhà nước không thu thuế theo hộ gia đình mà coi cộng đồng làng, xã là một tập thể để thu thuế. Nhà Trần có hệ thống thái ấp, điền trang là hình thức sở hữu đặc biệt của tầng lớp quý tộc. Trang viên là ruộng mà nhà vua ban cho quý tộc, trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu của nhà nước và triều đình hoàn toàn có quyền lấy của người này và cấp cho người khác.
Các quý tộc có quyền sử dụng đất đai và hưởng những lợi ích từ đất đai cũng như thu thuế, xây dựng cung điện trên đó, v.v. Do tính chất hạn chế của việc chiếm đoạt đất đai, trang viên không thể phát triển. các cát đi chống lại chính phủ. Ngoài ra, chế độ trang trại cũng phát triển mạnh mẽ.
Trong suốt hàng trăm năm tồn tại, các thái ấp và điền trang có ý nghĩa chính trị lớn. Họ đã góp phần xây dựng triều đình thống nhất, thống nhất, góp phần giữ vững nền độc lập dân tộc.
Nhờ đó, xã hội thời Trần vẫn giữ được sự ổn định về kinh tế, sự phân minh giữa công và tư, giữa quyền lực nhà nước với tầng lớp quý tộc quan lại và dân thường làng xã.
Thứ hai: Hạn chế
– Việc trao quyền cho tầng lớp hoàng gia, quý tộc vẫn tiềm ẩn nguy cơ phân quyền.
Dưới thời Dụ Tông, nhà Trần rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, khi những mâu thuẫn nội bộ về chế độ điền trang, thái ấp được đẩy lên đến đỉnh điểm. Tầng lớp quý tộc nhà Trần ngày càng suy thoái, biến chất, nông nô, nô lệ bị áp bức, bóc lột nổi dậy. Cùng với đó, thiên tai liên tiếp xảy ra khiến sản xuất đình trệ, nhân dân điêu đứng.
Xem thêm: Cách Tag Tên Trên Facebook Và Sửa Lỗi Không Tag Bạn Bè Được
Mâu thuẫn xã hội ngày càng gia tăng làm bùng lên các cuộc nổi dậy của nông dân, đòi quyền làm nông dân tự do.
Bên cạnh đó, tầng lớp quý tộc bị tha hóa về trình độ, năng lực và phẩm hạnh. Vua Trần thời hậu không biết chiêu nạp nhân tài, khi bị Chiêm Thành xâm lược không ai địch nổi phải nhờ tướng ngoài hoàng tộc.
– Chế độ hôn nhân cùng giới. Dưới thời Trần là hàng loạt biểu hiện của sự ngu dốt và đen tối của giới cầm quyền. Chế độ quân chủ quý tộc từ đó bị khủng hoảng trầm trọng, cản trở sự phát triển của đất nước.
– Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và hành chính còn rời rạc, chế độ quân chủ tập trung quan liêu hạn chế, đòi hỏi phải thay đổi để phát triển. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly, thay thế chế độ quân chủ quý tộc bằng chế độ quân chủ quan liêu mới là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết.
So sánh bộ máy nhà nước thời Trần và thời Lý
Đầu tiên: Sự tương đồng
Vua là người đứng đầu đất nước, nắm mọi quyền hành. Giúp việc cho vua gồm các quan văn võ.
– Tổ chức nhà nước theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền.
– Những chức vụ trung tâm quan trọng đều do những người thân cận, cùng huyết thống nắm giữ.
– Tổ chức quản lý của bộ máy nhà nước được chia thành các cấp như nhau.
Thứ hai: Sự khác biệt
– Nhà Trần thực hiện chính thể quân chủ Thái Lan, cha con cùng cai trị đất nước. Nhưng nhà Lý chỉ có Vua đứng đầu.
– Thời Trần có thêm một số quan lại trông nom việc sản xuất.
– Thời Lý chia nước thành 24 lộ, thời Trần thu hẹp lại còn 12 lộ để dễ quản lý. Các đơn vị hành chính từ cấp lộ đến cấp xã thời Trần khác với thời Lý:
thời Lý | thời Trần |
– Chia cả nước làm 24 lộ, phủ, ở núi gọi là châu.
– Đứng đầu là tri phủ, tri châu giao cho con cháu vua hoặc quan lớn cai quản. |
– Chia cả nước thành 12 lộ
– Đứng đầu đường là các trưởng, phó của An Phú. Từ châu đến huyện, xã có người đứng đầu (tri phủ, tri châu, tri huyện, xã quan). |
Qua chia sẻ về Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Trần Mong rằng các bạn đã có được những thông tin hữu ích cho mình khi tìm hiểu về nhà nước thời Trần, bài viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các bạn!