Tên Cổ Nhuế đầu tiên là Nội, tục gọi là Nội. Về nguồn gốc tên gọi làng Nội, đến nay chưa có tài liệu nghiên cứu nào đưa ra lời giải xác thực mà có nhiều truyền thuyết khác nhau. Trong đó, có truyền thuyết kể rằng: Vùng đất này xưa kia có nhiều sông và đầm lầy, dân làng phải “lội nước lội” rất khó khăn. Vậy là chòm sao Nội có tên từ đó.
Bạn đang xem: Cổ Nhuế
Truyền thuyết còn kể rằng: Mùa thu năm 1027, con vua Lý Thái Tổ, húy Lục, tức Đông Chính Vương, đem quân dẹp loạn ở châu Văn (thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay). Làng Nội, dân làng mang lương thực, thực phẩm tặng bộ đội làm lương thực hành quân. Sau khi chiến thắng trở về, Đông Chính Vương xin cha một điền trang ở làng Nội. Ba xóm Nội: Hoàng – Trù – Đông trở thành những người “tao la” (tức người được giao trông nom nhà thờ) được miễn dịch. Các cụ già trong làng bèn dâng sớ xin vua đổi tên làng Nội thành làng Cổ Nhuế theo phiên âm Hán Việt của từ Kẻ Nội. Tuy nhiên, cái tên Kẻ Nổi vẫn tồn tại cùng với Cổ Nhuế mãi về sau.
Trải qua hàng nghìn năm tồn tại, nghề trồng lúa nước ở vùng sình lầy gặp nhiều khó khăn nên người dân Cổ Nhuế theo thời gian phải làm nhiều nghề phụ khác nhau. Nổi tiếng nhất cho đến ngày nay là may vá. Theo các cụ già trong làng kể lại, nghề may ở Cổ Nhuế có từ cuối thế kỷ 19, do 3 người trong gia đình họ Nghiêm đi học xa rồi làm nghề và truyền dạy lại cho con cháu. Vài năm sau, nghề may lan rộng khắp làng. Đến năm 1923, cả xã có hàng trăm chiếc máy khâu. Công việc đầu tiên của nghề may là phục vụ người dân quanh vùng, sau đó là may thuê cho các chủ thầu ở Hà Nội. Có người khá giả kéo vào nội thành mở tiệm, có người làm thuê cho các hiệu may ở Hàng Trống…
Xem thêm: Cấm Công Chứng Mua Bán Nhà Ở Xã Hội Bán Được Không? Trả Đúng Tên Nhà Ở Xã Hội

Hội làng Cổ Nhuế. Ảnh: internet
Bước vào thời kỳ đổi mới, nghề may ở Cổ Nhuế càng có điều kiện phát triển. Theo ước tính của người dân nơi đây vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, hơn 60% hộ gia đình trong xã làm nghề may hoặc các công việc liên quan (như vận chuyển, bán sản phẩm…). Trong mỗi hộ gia đình, có một số máy khâu. Các sản phẩm may đo ở Cổ Nhuế không chỉ có mặt ở các chợ lớn, nhỏ ở nội, ngoại thành Hà Nội mà còn ở nhiều tỉnh phía Bắc. Hàng may mặc Cổ Nhuế còn được xuất khẩu sang một số nước châu Âu và châu Á (thông qua các công ty trung gian) như: Hàn Quốc, Nga, Ba Lan, Đức… với các mặt hàng cao cấp như veston, sơ mi. lông vũ, áo nhựa vinyl, áo khoác bay. Hàng may mặc Cổ Nhuế trên thị trường trong nước theo từng mùa rất đa dạng, phong phú về chủng loại mẫu mã, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng… Không phải ngẫu nhiên mà có từ nhiều năm nay. trên thị trường may mặc tại Hà Nội đã quen thuộc với thuật ngữ “Hàng Cổ Nhuế”. Những năm gần đây, may Cổ Nhuế chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng may mặc trong và ngoài nước, kể cả hàng Trung Quốc nên hình thức sản xuất còn nhỏ lẻ, độc lập theo từng hộ gia đình. Các hộ sản xuất thủ công bằng máy móc đã được thay thế bằng mô hình sản xuất tập trung thành các xưởng may lớn, sản xuất theo dây chuyền máy may công nghiệp. Người làng Cổ Nhuế đã xây dựng một ngôi nhà thờ lớn để thờ ba ông tổ nghề may của làng. Hàng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp, dân làng lại tập trung tại nhà thờ để làm lễ giỗ ông tổ nghề may.
Ngày nay, đến thăm làng, du khách sẽ bắt gặp nhiều công trình kiến trúc cổ kính như: Đình thờ Đông Chính Vương (được coi là Thành hoàng làng) được xây dựng từ thời Lý. Chùa Mộc và chùa Sùng Quang được xây dựng từ thời nhà Lý (tương truyền chùa Sùng Quang do công chúa Minh Hiền – con vua Lý Thái Tổ) xây dựng. Cây cầu đá bắc qua dòng sông Đào chảy qua làng (xây dựng năm 1726), giếng cổ xây bằng đá ở chùa Sùng Quang từ năm 1748. Miếu thờ Túc Trinh công chúa – con gái vua Trần Thánh Tông (xây dựng từ thời vua Trần Thánh Tông). Trần) cùng các nhà thờ họ, nhà thờ họ và hàng chục tấm bia đá cổ ghi lại những sự kiện, dấu ấn lịch sử ở làng Cổ Nhuế xưa. Mỗi công trình kiến trúc mang một dáng vẻ khác nhau nhưng đều chung một tâm hồn xưa cũ thu hút du khách. Đến làng vào đúng ngày mùng 1 và mùng 6 âm lịch, du khách sẽ được tham dự phiên chợ Nội, một trong năm phiên chợ chính để trao đổi nông sản ở ngoại thành Hà Nội xưa, cùng với chợ Vẽ (Đông Ngạc). , chợ Cao (xã). Xuân Đỉnh), chợ Bưởi (phường Bưởi) và chợ Hà Đông (thị xã Hà Đông).

Lễ hội Đền Chúa xã Cổ Nhuế. Ảnh: internet
Kẻ Nội là một vùng đất cổ có lịch sử lâu đời, nằm sát phía Tây Bắc Kinh, kinh thành Thăng Long xưa, trải qua bao biến đổi với thời gian, những dấu tích xưa đã dần mất đi nhưng vẫn còn lưu giữ một lễ hội. Truyền thống 985 năm – Lễ hội họ Hoàng Được cho là một trong những lễ hội lâu đời nhất đất Hà Thành, Hội làng Kẻ Noi bắt đầu được tổ chức từ năm Mậu Thìn 1028, đời vua Lý Thái Tổ thứ 19. Cũng trong năm này, làng Kẻ Nổi chính thức đổi tên là làng Cổ Nhuế và xin sắc phong Hoàng tử Đông Chính Vương làm Thành Hoàng để thờ. Chuyện xưa kể rằng, tháng 8 năm Đinh Mão, niên hiệu Thuận Thiên thứ 18 (1027) đời vua Lý Thái Tổ, Hoàng Vương sai cha đi đánh giặc ở Văn Châu (Lăng). Con trai). Tháng 2 năm sau (Mậu Thìn 1028), Hoàng Vương thắng trận trở về, dân làng đứng hai bên đường cung kính chào đón. Sau đó, dân làng Cổ Nhuế được vua ban cho 1.600 mẫu ruộng và được miễn thuế. Năm Thiên Thành thứ 2, Thượng hoàng và công chúa thứ tư con vua Lý là Tạ Minh Hiến bỏ tiền xây dựng đình Hoàng. Năm 1988, đình cũ được dời về xây dựng ở đường Phạm Văn Đồng hiện nay, đình lúc đó rộng gấp 3-4 lần đình hiện nay.
Lễ hội đình Hoàng được nhân dân Cổ Nhuế tổ chức 5 năm một lần với quy mô lớn trên toàn xã gồm 12 thôn. Phần nghi lễ gồm: rước Thánh, rước giá văn, rước Phật điện, rước cờ phướn… Dẫn đầu đoàn rước là đội múa lân, đội múa bồng, trong nhịp trống, chiêng. , khiến không khí lễ hội thêm sôi động. Trên kiệu có ngai vàng chạm trổ lộng lẫy tượng trưng cho hình ảnh Đức Thánh Hoàng với mâm lễ vật, đèn nến kết hoa ngũ quả. Điểm nhấn của lễ hội là lễ rước kiệu Thánh Văn Dụ. Hành trình của đám rước đi từ đầu làng đến cuối làng, bắt đầu từ đình Hoàng đến chùa Trung Hưng, qua chùa Sùng Quang, qua miếu Bà Chúa, chùa Anh Linh, đi đến đâu dâng lễ đến đó, rồi rước Thánh Hội An. cây cung. Dân làng và du khách thập phương nô nức kéo nhau vào đoàn rước, tiếng nói cười hòa lẫn trong tiếng trống, tiếng nhạc. Nhân dân trong xã và các nơi lân cận đổ về chiêm bái, công đức cầu mong một năm mạnh khỏe, thuận buồm xuôi gió và tích cực tham gia các hoạt động được tổ chức trong ngày hội như: văn nghệ quần chúng, cờ tướng, chọi gà…

Làng Cổ Nhuế ngày nay. Ảnh: internet
Làng cổ Cổ Nhuế nay là một phường, thành phố của thủ đô. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại, làng Cổ Nhuế ngày nay vẫn rất đẹp, mang nhiều nét cổ kính rêu phong mà du khách nào đã một lần ghé thăm sẽ không thể nào quên.