Cảm nhận về tác phẩm Vị Hạnh của Nguyễn Ái Quốc
Dạy
1. Muốn hiểu giá trị của bất kỳ tác phẩm văn học nào của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, trước hết phải hiểu quan điểm của Người.
Trước khi đặt bút viết, ông luôn tự đặt cho mình câu hỏi: Viết cho ai? (đối tượng ghi) và Viết để làm gì? (mục đích viết). Từ đó xác định: Viết cái gì? (nội dung) và Viết như thế nào? (hình thức).
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã từng nói, suốt đời Người chỉ có một “ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta được hoàn toàn tự do, đồng bào đều có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hoạt động nào của ông cũng là một hình thức hoạt động cách mạng, hoạt động chính trị.Tất nhiên, văn hay thơ cũng vậy, ông không bao giờ đặt mục đích văn học lên hàng đầu. Nên khi ông tự hỏi: Viết cho ai? ?, cần hiểu ý ông muốn nói: Ai là đối tượng của vận động chính trị?Điều trị là gì?
Đối với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, quan điểm sáng tác này rất nhất quán, chi phối toàn bộ các tác phẩm của Người từ nội dung đến hình thức. Với tư cách là một tập thơ viết cho chính mình để an ủi mình trong thời gian bị giam cầm trong nhà tù của chính quyền Quốc Dân Đảng, ông cũng xác định rõ mục đích và đối tượng của mình:
Ngâm thơ chúng ta không hứng thú,
Nhưng vì nhà tù biết phải làm sao;
Một ngày dài suy ngẫm,
Ngâm mình chờ ngày tự do.
(Phần mở đầu của nhật ký)
Vậy truyện “Cuồng phong” viết cho ai và viết để làm gì?
Giữa năm 1922, thực dân Pháp đưa vua bù nhìn Khải Định sang Pháp tham gia đấu trường thuộc địa (một loại hội chợ, triển lãm các sản phẩm kinh tế, văn hóa của thuộc địa) ở Mác-ti-a. Âm mưu của chúng là lừa bịp nhân dân Pháp, để phục vụ cho công cuộc bóc lột thuộc địa của chúng: Vua An Nam sang Pháp để tỏ lòng quy phục “Mẹ Nước”, để cảm ơn công. của “Mẹ Nước” và xin “Mẹ Nước” tiếp tục dìu dắt dân tộc mình trên con đường văn minh tiên tiến. Như vậy, tình hình thuộc địa ở Đông Dương đã ổn định, nhân dân Pháp nên ủng hộ việc Chính phủ đầu tư lớn vào Đông Dương để khai thác nguồn tài nguyên phong phú ở xứ sở này và tiếp tục “khai hóa” người dân bản địa Mông Cổ. bồ hóng này.
Nguyễn Ái Quốc viết Vi diễn vào đầu năm 1923 cùng với các tác phẩm khác như vở kịch Rồng tre, truyện ngắn Tiếng khóc của bà Trưng Trắc, bài báo trào phúng Sở thích đặc biệt (đều viết năm 1922) để vạch trần âm mưu nông nổi. Tức là vạch trần bản chất bù nhìn tay sai bẩn thỉu nhất của Khải Định, nhân tiện tố cáo bản chất lừa bịp, bịp bợm của hai chữ “văn minh, văn minh” miệng lưỡi của bọn thực dân ở thuộc địa. .
Viết “Bạo động”, Nguyễn Ái Quốc chủ yếu nhắm vào độc giả Pháp, trước hết là người dân Pa-ri. Vì vậy, nó phải được viết bằng tiếng Pháp theo phong cách châu Âu hiện đại. Và nó phải được viết sao cho lôi cuốn được đối tượng này, tức là phải có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, đồng thời phải đưa được những tin bài thời sự nóng hổi đang được chú ý trong sinh hoạt giải trí của người dân Paris.
Để có sức thuyết phục cao nhất đối với người Pháp, người viết phải giữ thái độ khách quan, tránh những lời lẽ xúc phạm trực tiếp, nặng nề.
Lấy sự tố cáo, đả kích làm mục tiêu, truyện phải mài giũa vũ khí châm biếm. Phong cách trào phúng đặc sắc, linh hoạt, giàu chất trào phúng là nét chính và là điểm mạnh chủ yếu của nghệ thuật “Bạo dâm”.
2. Một trong những khâu then chốt của nghệ thuật truyện ngắn là xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, đồng thời làm nổi bật chủ đề tác phẩm và tính cách nhân vật. Đây là một trong những sáng tạo độc đáo của tác giả “Vi hành”.
Tình huống truyện “Tầm nhìn” là gì? Đó là một tình huống kỳ lạ, vừa buồn cười vừa châm biếm sâu sắc: một tình huống khó hiểu. Đôi vợ chồng người Pháp trên tàu điện ngầm đã nhầm lẫn nhân vật người kể chuyện với Khải Định. Sự nhầm lẫn được tác giả tạo ra với mục đích tốt, nhưng không hề tỏ ra khiên cưỡng hay vô lý. Bởi vì đối với người phương Tây, rất khó để phân biệt những khuôn mặt khác nhau của người da vàng. Đối với họ “vẫn cái mũi tẹt, vẫn đôi mắt xếch, cái mặt tái như vỏ chanh” chẳng có gì khác biệt (cũng như người Việt, chúng ta khó mà phân biệt được những nét khác với người Tây: da trắng, mũi nhọn, da xanh mắt đều như nhau).
Sự nhầm lẫn đó đã khiến nhân vật “tôi” tình cờ nghe được cuộc trò chuyện bí mật và láu cá của một cặp vợ chồng người Pháp về Khải Định. Vì vậy, Khải Định không xuất hiện trong tác phẩm, nhưng chân dung của ông được vẽ rất cụ thể và hài hước. Cách đặt tên vua bù nhìn lố bịch này nhằm bảo toàn tính khách quan: không phải Nguyễn Ái Quốc – một người cộng sản – cố tình coi Khải Định là kẻ thù giai cấp. Đây là người Pháp họ nghĩ và nói về ông như vậy!
Chỉ trong mắt người Pháp, Khải Định mới trở nên khôi hài như vậy. Vì là thần dân của một nước dân chủ nên họ xem vua – nhất là vua của một nước phương Đông – như một món đồ cổ, một vật lạ từ một xứ sở xa xôi nào đó. Và bởi vì họ là người phương Tây, họ nhìn vào mũ và chụp đèn, nhìn vào quần áo và đồ trang sức của hoàng đế bằng lụa và đeo chuỗi hạt, …
Thế là qua cuộc đối thoại của một cặp vợ chồng người Pháp, kể về vị khách Annan ngồi cạnh vua bù nhìn mà họ nhìn thấy ở trường đua ngựa, Khải Định hiện ra như một người đàn ông mũi tẹt, mặt tẹt, đeo chụp đèn trên xe. Đầu chít khăn, mình đeo rất nhiều lụa và hạt cườm, trông có vẻ bẽn lẽn, ngượng ngùng v.v… Nhưng mà lên tàu điện ngầm đến đây làm gì mà sao không có người hộ tống? Họ hỏi nhau những câu hỏi như vậy và tự trả lời: “Hay là anh ấy đem tất cả số đó đến hiệu cầm đồ?”. ; “Có lẽ tôi đã để tất cả ở chỗ để hành lý của nhà ga để ra ngoài chơi”.
Cuộc nói chuyện cứ thế tiếp diễn, và “vua An Nam” không còn là một kẻ thống trị, chỉ là một kẻ tiêu xài hoang phí, lén lút ở Paris.
Cái giá của Khải Định còn thấp hơn, khi cặp đôi này coi ông không hơn không kém một trò giải trí rẻ tiền, thậm chí không cần tiền – không như những trò giải trí khác phải tốn kém ít nhiều như xem phim. Chú hề Salo từng theo dõi phi tần của vua Campuchia…
Qua đó tạo ra một tình huống khó hiểu, tác giả đã đem đến cho tác phẩm hiệu quả nghệ thuật về nhiều mặt:
-Làm cho câu chuyện vui vẻ và thú vị.
-Giúp thái độ trần thuật có vẻ khách quan nhưng công kích mạnh mẽ hơn.
-Nhân vật chính không có mặt nhưng được miêu tả đầy đủ và cụ thể hơn: kết hợp giữa chân dung Khải Định trong trang phục hoàng đế và chân dung của ông dưới hình thức “vi hành”.
3. “Bạo lực” được thuật lại dưới dạng một bức thư gửi cho người em họ ở quê (đã dịch sang tiếng Pháp). Điều này có ý nghĩa gì về mặt nghệ thuật?
Viết truyện dưới dạng thư thực ra không có gì mới lạ, độc đáo. Vấn đề đặt ra là tác giả sử dụng hình thức này có phù hợp không và đạt hiệu quả nghệ thuật như thế nào.
Thư là lối hành văn rất phóng khoáng, tức là được tự do chuyển từ truyện này sang truyện khác, từ cảnh này sang cảnh khác, từ giọng văn này sang giọng văn khác. Trong thư, người ta có thể thông báo sự kiện, thông tin, gửi lời nhắn, có thể bộc lộ cảm xúc hoặc trao đổi những tâm tư thầm kín của mình. Một bức thư riêng viết cho người thân có thể thực hiện tất cả các chức năng này. Bức thư “Bạo lực” thuộc loại này.
a) Chuyển giọng, chuyển cảnh linh hoạt
Nhờ hình thức viết thư, tác giả đang chuyển từ giọng trần thuật khách quan (t thuật lại cuộc nói chuyện giữa một cặp vợ chồng người Pháp trên tàu điện ngầm ở Pa-ri) sang giọng trữ tình thân mật khi tâm sự với người em họ. ở nhà. Có thể tìm thấy ở “Tử Vi” nhiều giọng điệu khác nhau, khi nghiêm túc, khi lạnh lùng sắc sảo, khi thân mật,… Tuy nhiên, giọng điệu chủ đạo vẫn là mỉa mai, mỉa mai, châm chọc. Bề ngoài nhiều khi có vẻ nhẹ nhàng, vui vẻ, nhưng thực ra đều là những cuộc tấn công sâu sắc và dữ dội:
“Đổi xe ở đây hả em?
– Không, ga tiếp theo. Đúng lúc đó, một vị vua đến với chúng tôi.
-Tôi thích Salo hơn. Bên cạnh đó, vua, nó đắt tiền!
– Nó đâu rồi! Bạn có nhớ vũ hội thuộc địa tại Nhà hát Khiêu vũ không? Đã phải trả ngàn rưỡi francs để được xem các cung tần mỹ nữ của vua Cam-pu-chia, để xem họ nhào lộn leo trèo của thánh tăng Công-gô; Hôm nay chúng ta không mất xu nào để xem nhà vua bên cạnh chúng ta? Tôi nghe nói ông chủ Nhà hát Múa rối có ý định ký hợp đồng thuê,…”.
Nhờ hình thức viết thư, tác phẩm cũng có thể chuyển đổi tự do: từ chuyến tàu điện ngầm ở Paris sang khung cảnh ngôi nhà thời thơ ấu của tác giả khi ngồi bó gối. chú cho chuyên nghe truyện cổ tích; Từ sự trá hình của vua Thuấn ở Trung Quốc, vua Pie ở Nga, đến cách “hành xử” của các hoàng tử, công chúa vì lý do “không bằng quý tộc”,…
b) Tham khảo chéo, so sánh thoải mái để thu hút nhiều đối tượng cùng lúc.
Thứ nhất là thư riêng, là lối viết rất chủ quan, người viết có thể bộc lộ hết cảm xúc tự do của mình, đồng thời liên tưởng chéo từ chủ đề này sang chủ đề khác, đôi khi không có mối liên hệ nào. liên quan gì đến nhau. Tác giả của “Bạo lực” đã làm điều đó. Chẳng hạn, từ câu chuyện về “hành vi” của Khải Định, người viết đưa ra đủ loại phán đoán giả thiết về hành vi phi pháp, ô uế của ông, với các từ “anh muốn”, “hay… anh… muốn” . Ai cấm người ta viết thư riêng cho người thân mà có thể thoải mái suy luận như thế. Đặc biệt, từ sự nhầm lẫn của đôi vợ chồng người Pháp, tác giả liên tưởng trớ trêu và bất ngờ đến bọn mật thám ở Paris luôn theo sát các nhà cách mạng Việt Nam theo lệnh của chính quyền nổi dậy. Điều tuyệt vời nhất là ngay cả Chính phủ cũng không công nhận những vị khách thực sự của mình nữa, và để đảm bảo không thất bại trong nhiệm vụ tiếp đón của mình, Chính phủ coi tất cả người An Nam như những vị vua. Chúa và cử tùy tùng của mình để cứu giá! […] Có thể nói, ngươi bám lấy đế giày của ta, dính lấy ta như hình với bóng. Và thành thật mà nói, bạn sẽ phát hoảng nếu mất tôi chỉ sau vài phút đấy!”
“Vi Vio” là một bằng chứng cho thấy Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, mặc dù không bao giờ tự nhận mình là một nghệ sĩ, nhưng thực sự là một tài năng nghệ thuật. Châm biếm độc đáo, linh hoạt và đa dạng, dường như từng chi tiết, từng câu, từng chữ đều sắc bén như những nhát dao đâm vào kẻ thù.